Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Hóa giải Địa Không Địa Kiếp (2)

Tác giả: dichly
Không Kiếp là hai hung tinh hàng đầu trong tử vi, đóng đâu xấu đó, ai cũng muốn tránh. Ngay cả khi đắc địa cũng chưa chắc đã tốt, kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp dù đắc mà gặp bộ chính tinh yếu như Cơ Nguyệt Đồng Lương thì vẫn cứ xấu. Chế ngự Không Kiếp là việc rất nên làm, nhưng sách vở xưa nay chỉ nêu chung chung là dùng các sao giải như Hóa Khoa, Thiên Giải, Tuần Triệt. Bài này cố gắng đưa ra các biện pháp cụ thể căn cứ lý thuyết và thực tế đã chiêm nghiệm được.


Trước hết thử cách ngăn chặn là tạo ra Tuần Triệt bằng cách kích động cung lục hại Mệnh. Tuy nhiên cách này chỉ áp dụng được với Mệnh vô chính diệu, còn nếu Mệnh có chính tinh thì chưa chắc đã hay, áp lực cùm khóa đè lên chính tinh lại thành có hại. Vậy chỉ còn cách làm tĩnh Không Kiếp để nó giảm thiểu tác hại và dụng Hóa Khoa đệ nhất giải thần để giải.

Một sao xấu trong cung chỉ có thể gây họa nếu nó có cơ hội phát động lên. Còn ở trạng thái tĩnh, nó ít làm gì được, như thanh kiếm để yên trong vỏ, cơ bản là vô hại. Không Kiếp cũng thế, ở Mệnh là bản chất con người có hạn chế, nhưng cái bản chất ấy chỉ lộ ra thành họa nếu nó động lên do tương giao với hoàn cảnh. Vậy để làm tĩnh Không Kiếp thì cần nhất là khóa chặt, làm tĩnh cung Di.

Hạn chế cung Di tức là đừng giao du dính mắc nhiều với bên ngoài. Người thường làm thế có thể tốt nhưng Mệnh Không Kiếp làm thế là đang thả Không Kiếp vào hoàn cảnh, sẽ tạo cơ hội cho nó tác họa. Không Kiếp lợi nghiên cứu, suy tư cá nhân, tìm tòi khám phá nên rất cần phải có không gian cá nhân trong nhà để làm những việc riêng tư như đọc sách, suy nghĩ, viết lách, Thiền, tìm hiểu cái gì đó. Các nhà khoa học thành công thường có Không Kiếp chính bởi vì cách sống của họ cơ bản là ngồi lỳ trong phòng để nghiên cứu, suy tư. Họ vận dụng Không Kiếp để đào sâu tư duy cá nhân, từ đó có các khám phá, phát minh mới. Họ tự nhiên làm tĩnh cung Di nên không để Không Kiếp thoát ra ngoại cảnh mà gây họa.

Các nhà văn cũng dùng cách tương tự, rất nhiều nhà văn nổi tiếng có Không Kiếp ở Mệnh. Họ thứ nhất dùng học hành, thứ hai tĩnh lặng để suy tư, để viết, đó chính là họ đang trấn an Không Kiếp, không để nó nổi lên theo cung Di. Có ông đóng cửa treo biển không tiếp khách cả tháng để tập trung viết, bản chất là gì, chính là vô hiệu hóa cung Di, không để cung Di xâm lấn lôi kéo mình. Nhà văn mà cứ lê la như người thường, bon chen đủ trò ắt là hỏng, không thể suy nghĩ viết được cái gì cho ra hồn. Tại sao hiện nay văn học kém, vì họ dù có Không Kiếp hay không đều phải bon chen kiếm sống, thêm vào đó là môi trường học thuật tiêu cực. Đăng bài cũng phải thân quen, lượn lách xí xớn với biên tập. Xuất bản sách cũng đòi lót tay, nhuận bút vài đồng có khi lại phải ra quán nghe thổi sáo bằng chai bia ! Để bị cuốn vào đó là thả Không Kiếp ra rồi, những trò bẩn đó là sở trường của Không Kiếp. Để Không Kiếp cuốn theo ngoại cảnh thì mất hết trí huệ, còn viết được cái gì ra hồn. Câu thành ngữ cổ :“Trí tuệ sinh ra trong yên lặng…” rất có thể là dành cho Không Kiếp!

Từ đó suy ra Không Kiếp hợp người tu hành là cực kỳ hợp lý, vì họ đã cách ly mình với xã hội rồi. Tu hành chính là biện pháp hóa giải Không Kiếp triệt để nhất. Không có cung Di kích động, Không Kiếp còn lại mình ta dưới trăng sáng, thế thì biết tiêu cực vào đâu, biết tham lam sân hận với ai ? Không Kiếp khi đó trở lại bản chất nội tâm thầm kín, đào luyện tâm thức đi đến chỗ sâu xa đại ngộ, vì thế Không Kiếp là cửa ngõ giác ngộ, là sao của nhiều bậc chân tu.

Cách thứ hai để giải Không Kiếp là dụng Hóa Khoa, như sách vở đã viết, nhưng sách vở không nêu cách làm cụ thể. Thực tế để dụng Hóa Khoa không có nghĩa là Mệnh, Thân phải có Hóa Khoa, mà là dụng tất cả các tượng thể hiện ra của Hóa Khoa. Đó là học hành, bằng cấp, trường lớp, khoa bảng, giáo dục…

Trước hết là học hành để có bằng cấp, việc này không chỉ giải Không Kiếp mà còn giải nhiều điều xấu khác. Cứ có bằng cấp là cơ bản hơn số đông thi trượt rồi. Sau khi có bằng cấp thì dụng tiếp khí Hóa Khoa, đó là làm nghề thầy, thầy giáo, thầy thuốc, thầy nghiên cứu. Gắn mình với các cơ sở giáo dục, học viện, trung tâm nghiên cứu. Cách này giải Không Kiếp rất hiệu quả, do tính mô phạm của Hóa Khoa nên Không Kiếp bị hạn chế ảnh hưởng. Giáo dục còn tạo ra môi trường học thuật để Không Kiếp chú tâm vào, phát huy điểm mạnh. Nếu có tiêu cực thì cũng ít hơn ngoài xã hội, thậm chí xã hội còn cố tình lôi kéo các ông thầy vào tiêu cực. Người ta thường quan niệm những trò mua bằng, bán điểm, gian lận thi cử là tệ nạn chung, không là gì cả. Nhận thức này vô tình có lợi cho bản chất tham lam sân hận của Không Kiếp.

Trong thực tế nghiệm lý, cùng mệnh Không Kiếp mà làm thầy bà so với không đã khác nhau hẳn rồi. Trên các diễn đàn huyền học có người công khai lá số có Không Kiếp mà xem ra vẫn bình thường, ấy chính là vì họ đang dụng Không Kiếp để nghiên cứu huyền học. Có người lại chính là giáo viên, bác sỹ, nhà khoa học nên vô tình làm Không Kiếp đi đúng đường, vì thế nó đỡ xấu. Ngoài ra, người mệnh Không Kiếp chỉ cần có nhà ở gần cơ sở giáo dục thôi thì cũng đã tự nhiên tốt hơn. Khí Hóa Khoa tỏa ra từ đó gây ảnh hưởng tốt đẹp lên môi trường sống, làm bản thân họ được lợi và cả con cháu thế hệ sau.

Nếu không thể làm thầy giáo, thầy thuốc, nhà khoa học thì làm việc trong ngành giáo dục cũng là tốt rồi. Hoặc hãy tìm hiểu, tu học cái gì đó, như lĩnh vực huyền bí chẳng hạn. Người Không Kiếp vốn sẵn căn cơ nên nếu học được, có trình độ cao thì tự biết cách hạn chế cái dở của mình, hơn hẳn kẻ chỉ biết dụng Không Kiếp mà gian lận đục khoét vơ váo riêng tư.

Ai cũng có thể trở thành nhà nghiên cứu huyền bí, người Không Kiếp học huyền học đến khi có trình độ nếu lại nổi bản tính tham sân si mà xem bói lấy tiền thì sao ? Việc dụng huyền học giúp người mà thực có ích thì có lấy tiền cũng chả sao. Đài Cảng người ta treo biển hành nghề đàng hoàng là có cái lý chính đáng của họ. Tuy nhiên dụng huyền học theo cách xây nhà hướng tốt, lập cửa hàng đắc cát khí để kinh doanh sẽ hay hơn là xem bói lấy tiền. Điều này tự “mệnh Không Kiếp” cân nhắc áp dụng. Bởi vì xem đúng rất khó, tưởng giúp được người ta mà thành ra hại họ, nên nhiều người hành nghề xem bói rồi về sau con cái đều bị họa nặng. Ăn lộc của người mà không thực làm gì có lợi cho người thì tức là đang tự gây nghiệp. Thầy bói Lợn nổi danh xưa kia chính là gương tày liếp!

Chung lại, Không Kiếp có thể giải bằng việc làm tĩnh nó, tức là khóa cứng cung Di, đi tu, đừng giao du nhiều với xã hội. Hai là dụng Hóa Khoa, dù mệnh không có cát tinh ấy nhưng nếu học hành để có bằng cấp trình độ là tự nhiên đã có cái linh phù may mắn để đè Không Kiếp rồi. Còn nếu học ra lại làm thầy, làm trong ngành giáo dục, nghiên cứu thì là đắc Khoa thực sự để giải Không Kiếp. Thứ nữa là có nhà ở ngay gần cơ sở giáo dục để hưởng khí Hóa Khoa cũng đại cát đại lợi. Tiếp theo là nghiên cứu học thuật để có chuyên môn cao. Hoặc tập viết văn, đào luyện cảm xúc cá nhân cho lên blog rên rỉ ỉ ôi cũng lợi hơn là không làm gì. Hiện nay các quý chị em nữ viết văn chuyên nghề khoe hàng, cố tình ưỡn ẹo hớ hênh đâu đã vô ích, biết đâu vì em có mệnh Không Kiếp…

Ông nhà văn Nguyễn Khải mệnh thân có Không Kiếp, ông làm việc ngay trong một tòa báo lớn, luôn gần chữ nghĩa Xương Khúc, ông lại chăm chỉ, rất chịu khó nghiền ngẫm viết lách, nên khởi đầu văn ông dở mà cuối đời ông rất thành công.

Ông Ma Văn Kháng thì làm ngay trong ngành giáo dục rồi mới bắt đầu viết lách nọ kia…

Ông Nguyễn Huy Thiệp cũng vốn là giáo viên…

Ông Trương Đình Anh dù Không Kiếp đắc nhưng tự nhiên vẫn hành động theo hướng vừa dụng vừa giải nó. Đó là ông chả bao giờ lê la giao du vớ vẩn, làm việc xong ông về nhà. Ông tự hạn chế không để cung Di động lên, ông ở trong tháp ngà riêng của ông, đó cũng là tu đấy. Ông âm thầm nhồi bom để làm nổ tung cho chứng khoán FPT nó bay tít lên 500, 600 trăm ngàn 1 cổ phiếu làm lóa mắt kẻ hấp tấp tung tiền mua vào…

Họ đều giải Không Kiếp theo hướng hoàn hảo, đi đến thành công hơn người.

Người bình thường có Không Kiếp đôi khi tự biết cách hành động để giải. Tại sao mẹ Mạnh Tử nhất định phải chuyển nhà đến gần trường học ? Vì lá số của bà hoặc của con bà có Không Kiếp chăng ? Mạnh Tử là Á Thánh sau Khổng Tử, biết đâu tất cả đều bắt nguồn từ việc chuyển nhà đó…

Hóa giải Địa Không Địa Kiếp



Tuy là cặp sát tinh tàn phá ghê gớm, nhưng Địa Kiếp- Địa không cũng có chỗ đắc dụng của nó. Người có mệnh Phá Quân mà có Kiếp KHông xem như đắc cách. Nhiều người cho rằng Phá Quân chỉ huy được kiếp không với điều kiện nó không bị tuần triệt hay Hoá KHoa + Tài Thọ (Tử Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương), dù chủ đắc tớ hãm hay chủ hãm tớ đắc cũng chỉ là những trục trặc nho nhỏ ban đầu mà thôi). Một khi chủ tướng Phá Quân vắng mặt thì Thất Sát chỉ huy cũng không đến nỗi nào, Tham Lang không hiệu nghiệm là mấy.

Có trường phái cho rằng, Hoá Kị có thể hoá giải Kiếp Không? Phá Quân và Hoá Kị có đặc điểm thuộc Thuỷ, Kiếp KHông thuộc Hoả, có thể luận rằng Thuỷ khắc được Hoả chăng????

Luận về sinh khắc thì không phải hễ Thuỷ thì khắc được hoả mà nó phụ thuộc vào liều lượng nữa. Nếu lửa đang cháy lớn mà cho ít nước vào (không đủ liều lượng khắc chế) thì càng làm cho hoả thêm mạnh mà thôi.

Theo quan điểm của tôi, Phá Quân hay Hoá Kị không phải là kẻ khắc chế Kiếp KHông mà đơn giản nó chỉ là đồng minh mà thôi. Sát Phá Tham bản chất là hung tinh, nó cần đám sát tinh, bại tinh nhảy vào để thực hiện sứ mệnh đã được ấn định sẵn. Trong đó, Phá Quân là kẻ thích hợp nhất cho cặp Không Kiếp, chủ Phá Quân bản chất thuộc thuỷ có thể cầm đầu được Kiếp không, nhưng với Hoá Kị đích thị là đồng minh thân thiết mặc dù nó cũng thuộc thuỷ. Người có kiếp không thêm hoá kị mà rơi vào hạng người Tang Tuế Điếu, không những đam mê cờ bạc mà còn nghiện thêm hút sách.

Vì vậy, mỗi khi có Sát Phá Tham, thì phải có Kiếp Không nép mình với chủ tướng Phá Quân thì mới đắc dụng.

- Một trường hợp khác nữa mà kiếp không khó phát huy tác dụng đó là ngộ Tuần Triệt, Hay có KHoa, Tài Thọ đồng cung cũng giảm tính chất hung hãn, tàn phá của không Kiếp. Trong Tử Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương nói rằng nó giống như những vị thuốc độc được bào chế có thể dùng được vậy.

- Một trường hợp khác cần sự trợ giúp của Kiếp Không có lẽ là người có mệnh hoả VCD, thêm 1 tuần không hay Triệt không nữa để trở thành VCD đắc tam không nếu không có trung tinh đắc cách nhảy vào.

- Hầu hết các trường hợp còn lại không nằm trong những trường hợp trên, nếu thời gặp kiếp không, hoặc nó nằm cung nào thì nó tàn phá cung đó. Thời gặp nó hội tang - tuế - điếu thêm nếu bản chất không vững vàng và không có những sao giải đặc biệt thì dễ mất mạng như chơi, Người Tang Tuế điếu gặp Kiếp KHông hoá kị chắc chắn cờ bạc, nghiện ngập, tai nạn xảy ra bất cứ lúc nào khó mà tránh khỏi. Người Hình Riêu không kiếp là người dễ bị vạ lây.

Tóm lại: kiếp không là 2 sao sát tinh ghê gớm nhất của tử vi. Nó có chỗ đắc dụng và có chỗ không đắc dụng. Vì thuộc loại đại ca trong xếp hạng tàn phá nên tuỳ theo vào mệnh thân của đương số xét đến tương quan vận hạn trong từng trường hợp cụ thể mà có thể kết luận có chống chọi được nó hay không. Có những trường hợp vượt qua được nhưng có những trường hợp làm mồi cho nó mà thôi.

Trường hợp đặc biệt không thể tránh địa kiếp địa không trong Thân Mênh.

Địa không Địa Kiếp mặc dù an theo giờ sinh và khởi giờ tý tại cung Hợi. Cung hợi ứng với tháng 10, theo giờ sinh, mệnh thân nó sẽ vận hành trùng với quỹ đạo không kiếp, cho nên bất cứ lá số nào sinh vào tháng 10 âm lịch sẽ luôn dính kiếp không (mệnh không thân kiếp)

Người có mệnh không thân kiếp dù đắc hay hãm thì có tính tham lam, xảo quyệt, nóng nảy. Nếu nó đi vào hạng người Tang Tuế Điếu rất dễ nghiện tứ đổ tường (chủ yếu là cờ bạc và hút sách, ít khi nghiện món gái gú). Người Kiếp không đắc địa (giờ Tý + Ngọ) thì ăn nói lưu loát hơn, mặt dày mày dạn hơn.

Khi kiếp không đắc địa thì chúng thường cho đương số phát lúc đầu nhưng về sau lấy sạch cả gốc... lẫn lãi. Còn nếu Kiếp Không rơi vào thế hãm thì càng mệt hơn.

Tóm lại: Địa Kiếp Địa không là 2 sát tinh khó chịu nhất trong tử vi. Tuy chúng là cặp sát tinh hung dữ nhất nhưng có chỗ hữu dụng của nó. Mặc dù chúng hữu dụng trong 1 vài trường hợp nhưng nhìn chung là lành ít nhưng dữ nhiều.

Sự phá hoại của kiếp không có trường hợp giải được nhưng cũng có trường hợp phải chào thua. Việc vận dụng giải hạn phải xem xét trong từng trường hợp cụ thể xét trong tương quan sao và cục, phá và giải.

Nếu nó nằm ngoài mệnh thân thì nằm cung nào phải chú ý cung đó.

- Sao Địa kiếp có thuộc tính Dương Hỏa , là sát tinh thứ nhất trong chòm sao Trung thiên đẩu , là một trong sáu sát tinh chủ về kiếp sát , phá tán , là ngôi sao bất lợi nhất về tiền tài trong sáu sát tinh , đồng thời cũng bất lợi về đường tình duyên . Kiếp nạn của Địa kiếp là Kiếp tài ( Cướp của ) , không phải lúc sinh ra đã như vậy , mà đắc tài trước rồi mới phá sản , thậm chí mất nhiều hơn được , có khi còn vướng vào vòng kiện tụng . Có thể coi Địa kiếp là vua của sao sát tinh

- Nếu sao Địa kiếp đứng một mình tại cung mệnh , chủ về một đời thăng trầm bất ổn , sống vô nguyên tắc , có lối suy nghĩ và nhân sinh quan độc đáo , hành vi kỳ quặc lập dị , không theo lệ thường , không giỏi ăn nói , không thể tụ tài . Nếu đại hạn ,tiểu hạn gặp phải thì táng gia bại sản

Không Kiếp chỉ là sao giờ, cho nên tác hại cũng chỉ xảy ra trong một giai đoạn ngắn. Ở đời chẳng có cái gì xấu tuyệt đối cũng như chẳng có cái gì tốt tuyệt đối. Một kẻ xấu xa kinh khủng cũng hiếm có như một vẻ đẹp mỹ toàn. Không Kiếp được an theo giờ ở tứ sinh ( Dần Thân Tỵ Hợi ); đã được sinh ra ở bốn cửa sinh này ắt phải có lý do xứng đáng nào đó. Sự hiện hữu nào cũng có giá trị của nó. Mệnh có Không Kiếp đắc địa ở tứ sinh, là người;

- Kín đáo - Mưu trí - Can đảm

Mệnh có Không Kiếp hãm địa ở những cung còn lại, là người:

- Nôn nóng - Xảo quyệt

Không Kiếp đắc địa sẽ giúp Tả Hữu bạo phát trong giây lát quyết đoán đúng lúc, đúng việc bỗng chốc trở nên giầu sang phú quí, dù ngày mai có phải sụp đổ như đống tro tàn, thì kẻ thích một phút huy hoàng rồi tắt hẳn ắt phải yêu mến Không Kiếp ! Bạo phát là do có mưu trí sắc bén, có can đảm thực hiện dứt khoát trong giây phút cần đến. Bạo tàn là liều lĩnh, không tính toán thiệt hơn thì dễ gặp tai họa khủng khiếp bất ngờ.

Có sách cổ nói : Không Kiếp không đánh người sinh tháng Tư, tháng Mười, viện lý do Không Kiếp khởi ở cung Tỵ (tháng 4) và cung Hợi (tháng 10), e rằng gượng ép. Theo thiển ý, sở dĩ Không Kiếp không đánh người sinh tháng Tư vì lúc đó Tả Hữu đồng cung tại Mùi, sinh tháng Mười, Tả Hữu đồng cung tại Sửu. Những người Tả Hữu Sửu Mùi này đều có tài năng khéo léo, biết tính trước ngừa sau, không quá hấp tấp vội vã, không tự tung tự tác.

Ngoài ra, người sinh tháng Giêng và tháng Bẩy, bị Không Kiếp không hành hạ vì họ có Tả Hữu nằm chực sẵn tại chỗ(Thìn Tuất) nên rất dè dặt cẩn thận trong công việc.

Người xưa còn cho rằng Không Kiếp không đáng người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi mà không có lời giải thích tại sao. Theo thiển ý, những người tuổi tứ mộ là những người khôn ngoan, biết tự lượng sức mình chẳng bằng ai cho nên cư xử mềm dẻo thì cũng không mấy có máu Không Kiếp trong người vậy.

Không Kiếp tên gọi tắt của hai sao Địa Không Địa Kiếp. Có người cho rằng Địa làm sao Không, vậy thì Thiên Không Địa Kiếp đi một cặp. Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa Kiếp là một cặp.

Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: ”Tác sự hư không, bất thành chính đạo thành bại đa đoan” (làm việc coi thường, không theo chánh đạo, thành bại theo nhau)

Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải, với Địa Kiếp cổ nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi)

Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để mà luận đoàn.

Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững vàng, thànhc ông qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.

Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoái khỏi tình trạng thiếu tiến bộ

Địa Không thuộc âm hỏa chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi làm khuôn vàng thước ngọc sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.

Địa Kiếp thuộc Dương hỏa chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động không do dự và toàn làm những việc trái khoáy không cần biết thành hay bại, thành thì vui, bại không buồn.

Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ không hư ấy mà dấy lên.

Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, hỏa cùng chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết.

Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại thôi. Câu phú:”Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần khổ” sai, chỉ luận đoán mới có một chiều.

Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù bảo là tác sự hư không.

Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên chẳng ra đâu vào đâu

Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu” của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu vào đó.

Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công đến mức sáng tạo.

Những luận bàn về Tử vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết :” Kim Không tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng?

Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không đúng. Các nhà Tử vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp Địa Không đó.

Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.

Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim) gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công.

Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không. Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá.

Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau.

Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu

Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với số nào cũng đúng. Câu phú “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc chi hưởng” không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.

Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.

Có câu phú:”Không Kiếp Tỵ hợi phản vi giai luận nghĩa là Mệnh có Không Kiếp kể là tốt. Tốt mức nào còn tùy chúng hội hợp với những chính tinh nào? Kiếp Không thường ăn ý với hung tinh hơn cát tinh.

Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vỡ, nhiều trường hợp hai sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng Thiên Riêu, đào hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến hoá như trên.

Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa Kiếp.

Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống nữ.

Không Kiếp Tỵ Hợi gặp Tướng Mã và hóa Khoa là người can trường, có mưu cơ, công danh càng tốt vào đất loạn thời loạn, Không Kiếp Dần Thân cũng tương tự nhưng không bằng Tỵ Hợi.

Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ thường gian truân với duyên tình.

Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định. Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.

MỆNH có Địa không – Địa Kiếp: mọi việc đều hoàn toàn thất bại

Địa không, Địa Kiếp là hai sát tinh nặng nhất, mạnh nhất trong các vì sao xấu. Tuy chỉ là phụ tinh, nhưng ảnh hưởng của hai sao này mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc địa. Chỉ riêng một trong hai sao cũng đũ hóa giải hầu hết hiệu lực của sao tốt nhất là Tử vi.

Ngay cả trong bốn vị trí đắc địa là Tỵ, Hợi , Dần, Thân, hai sao này cũng còn tiềm phục phá hoại, tuy có góp phần gia tăng tài danh một cách nhanh chóng. Nhưng, cái may thường đi liền với cái rủi: sự hoạnh phát đi liền với sự hoạnh phá hay một tai họa nặng nề khác (đau ốm, mất của, tang khó…). Sự nguy hiểm bao giờ cũng tiềm tàng và sẵng sàng tác họa, nếu gặp hung tinh khác.

Vị trí tốt nhất của Không, Kiếp là Tỵ. Tại đây, hành Hỏa của sao tương hòa với cung Hỏa, chủ sự hoạch phát mau chóng và bất ngờ về quan, tài, vận hội, cụ thể như trúng số lớn, thăng chức nhanh, kiêm nhiệm nhiều công việc lớn, uy quyền bộc phát chói lọi được một thời gian.

Ở cung Hợi, Kiếp Không cũng có nghĩa như vậy, nhưng cường độ kém hơn, vì Hợi là cung Thủy vốn khắc sao Hỏa. Nhưng, cũng nhờ đó mà nên có tai họa suy trầm, sự xuống dốc không nhanh chóng như ở Tỵ. Tại Tỵ và Hợi, Kiếp Không bao giờ cùng đồng cung, cho nên hệ số tăng gấp bội về lợi cũng như về bất lợi. Còn ở Dần Thân, Kiếp Không độc thủ và xung chiếu, nên sự phát đạt không mạnh bằng ở Tỵ hay Hợi. Vị trí Dần tốt hơn vị trí Thân, vì lẽ Dần là Mộc hợp Hỏa, trong khi Thân là Kim vốn khắc Hỏa.

Do đó, luận về Kiếp, Không nên cân nhắc kỹ vị trí và sao đồng cung hay xung chiếu.

Kiếp Không đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ có nghĩa như hãm địa và những luận đoán phải đảo ngược. Trái lại, Kiếp hay Không hãm địa gặp Tuần hay Triệt án ngữ sẽ chế giảm hay triệt tiêu sức phá hoại của sát tinh này, nhưng không hẳn biến thành tốt đẹp.

Nguồn gốc Tuần Triệt

1. Nguồn gốc Tuần Triệt
Đã hình thành xong các sao chỉ đủ các hạng dân cơ bản, các cảnh sống cơ bản trong cộng đồng người rồi. Bây giờ phải nghĩ đến một cái đặc biệt như sau.
Mọi quốc gia, mọi xã hội đều luôn có cái thường và bất thường, không phải mọi vùng miền đều như nhau, có nơi văn minh, có nơi lạc hậu. Có hoạt động xã hội bình thường thì cũng có chỗ bị áp đặt qui chế riêng. Đặt ra Tuần Triệt để chỉ những cái bất thường như thế. Tuần Triệt là chỗ tiểu dị, khác biệt trong cái môi trường chung.


Tuần là chỗ xa xôi hiểm trở, chỗ lạc hậu chả ai muốn ở, chỗ cùng trời cuối đất, chỗ khỉ ho cò gáy xa trung ương, nên lấy hai địa chi trong tuần Giáp bị thiếu can, bị hết đất để biểu thị cho Tuần.
Triệt là nhà tù, dùng để giam giữ kẻ bị qui là có tội. Có tội thường có hai loại, một là bọn tội phạm đen tối, đại diện bởi hai can Nhâm Quý là chỗ cuối cùng. Thủy ở nơi thấp nhất là tối tăm mờ ám, như bọn tội phạm cặn bã. Loại thứ hai bị tù là những kẻ có tham vọng thái quá, kẻ phản loạn, kẻ khác ý vua, kẻ ở vị hàng đầu nhưng tham ô, tham nhũng. Bọn ấy đều có đặc trưng là hung hăng, cứng đầu, đầu têu làm bậy, làm bừa, gây cái tiêu cực, bất an, bất lợi cho môi trường chung. Bọn ấy đại diện bởi hai can Giáp Ất, tức đứng đầu. Nên Triệt chỉ đóng vào cung có can là Giáp Ất hoặc Nhâm Quý mà thôi.
Do bọn tội phạm dạng đen tối cặn bã luôn chiếm đa số nên Triệt cơ bản là đóng ở đất Nhâm Quý. Chỉ có hai can năm Mậu, Quý là Triệt ở Giáp Ất, vì Mậu là thổ trung tâm, nơi phát sinh bọn Giáp Ất lợi dụng chức quyền tham ô tham nhũng, hoặc bọn tham vọng nghĩ cách phản vua. Mộc Giáp Ất có tính vươn lên, ngoi lên, ở đất thuận lợi dễ sinh rửng mỡ vươn cao thái quá, cần chặt chém kiểm soát hạn chế nó để giữ nghiêm luật pháp, ngăn chặn biến loạn. Nên Mậu thì Triệt trấn cung Giáp Ất.
Quý là chỗ cùng cực tối tăm rõ ràng, nơi dân cùng đinh, hạ lưu, thấp kém ở. Chỗ ấy hay nảy sinh tội phạm, hoặc vì cùng cực mà làm phản nên cũng cần cái gông quàng vào. Nhưng chỉ quàng Giáp Ất thôi, vì đó là những tên tội phạm cầm đầu, là kẻ thủ lĩnh đám phản loạn. Nếu đặt Triệt vào can Nhâm Quý thì sẽ có nguy cơ cả làng bị họa, cả lũ bị giam, oan cho dân thấp kém, vì vẫn có người lương thiện sống ở đó. Vậy không thể lại cứ Nhâm Quý mà cùm hết được, chỉ bắt bọn Giáp Ất thôi.
Cách lý giải Tuần Triệt này dẫn đến những hệ quả hết sức quan trọng.
2. Sự khác nhau của Tuần Triệt
Tuần là chỗ xa trung tâm, chỗ ngoại ô, nông thôn, ngoại tỉnh. Vì không ở đất văn minh nên có cái lạc hậu, chậm phát triển, kém văn minh. Mở rộng là vùng đất xa, vùng đất lạ, vùng khác hẳn quê hương mình.
Triệt là giam hãm, bị kiểm soát, giám sát, bị ràng buộc chặt chẽ, bị tai vạ, bị chặt chém, tra khảo, xem đi xét lại. Triệt là nhiều lần, một lần không bao giờ xong.
Tuần Triệt khác nhau rõ ràng.
Tuần gây ra sự kìm hãm, trở ngại trì trệ, không thể hanh thông thuận lợi như bình thường. Tuần có tính lâu dài, sinh ra ở đó thì cả đời bị dính dáng liên quan đến đó. Đã bị Tuần thì dù có di chuyển về kinh đô vẫn là cái gốc cắm ở đất lạc hậu. Có cái cổ hủ chậm tiến nào đó.
Triệt thường chỉ là kiểm soát, giám sát chặt chẽ, bị hạn chế trong hành động, phải theo qui củ triệt để. Triệt mạnh nhất có tính chặt chém đột ngột, tai vạ bất ngờ. Đó là đang thành công mà bị tai nạn chết, gãy đổ bất ngờ.
Ngày xưa có quan trấn thủ biên ải, có chức tuần thú đi xuống kiểm tra các vùng xa xôi, các đất ấy đều là Tuần cả. Khi có kẻ bị tội thì hay bị đầy đi xa, đến vùng sơn cước hẻo lánh.
Đang bình thường mà phạm tội đi tù là Triệt, bị đầy đi xa mà tù là Tuần. Vì đầy đi xa cải tạo nên có ý là vẫn phải lao động, làm lấy mà ăn, nên Tuần có ý là không quá chặt, lâu dài nhưng không phải là bị nhốt cả ngày trong xà lim như Triệt. Triệt quản chặt, có cái riết róng hơn Tuần, nhưng lại có tính thời hạn, có thể ngắn, rất ngắn. Triệt ngắn nhất là đối với kẻ bị tai nạn, bị đại hình, trảm ngay tức khắc.
Ngắn gọn thì Tuần là chỗ đất chậm phát triển, kém hanh thông, không thuận lợi. Triệt là chỗ bị kiểm soát, dò xét, canh chừng kỹ lưỡng.
Gặp Tuần là như cái cây bị trồng tại đất xấu. Dù giống tốt vẫn là có nhiều hạn chế, kém hẳn trồng chỗ bình thường.
Gặp Triệt là như cái cây được hoặc bị chăm sóc quá mức, có khi bị cắt tỉa, chặt hạ.
Tuần Triệt vẫn có điểm chung, là cùm khóa, giữ chặt, không cho tự do, không thuận lợi trôi chảy.
Hạn gặp Tuần Triệt là đến hồi bị chậm tiến, bị giám sát theo dõi chặt.
Hạn qua Tuần Triệt là qua vùng đất xấu, qua cơn lận đận, tình hình tự nhiên khác hẳn đi.
3. Vô chính diệu gặp Tuần Triệt
Cung vô chính diệu gặp Tuần Triệt là vùng đất hoang vu, khỉ ho cò gáy, xa trung tâm bỗng có cái tin sẽ dời thủ đô về đấy, đã có qui hoạch chi tiết khu đô thị ở đó, thế là đất sốt giá vù vù, khác hẳn vô chính diệu đất hoang trống trơn.
Vô chính diệu gặp Tuần Triệt là đặt sự kìm hãm, kiểm soát vào chỗ hoang sơ mà thuận lợi.
Do là cái hoang vu được chú ý đặc biệt nên cũng có thể sẽ rất tốt hoặc chỉ bình thường, sốt xong rồi thôi nên cung vô chính diệu đắc các sao Không là phú quý khả kỳ!
4. Hóa giải Tuần Triệt
Có 3 cách hóa giải Tuần Triệt dựa trên nguyên lý hình thành của nó.
a. Động cung xung chiếu.
Sao tốt gặp Tuần Triệt là đáng được thuận lợi, tự do mà lại bị kìm hãm, vô hiệu hóa, nên xấu.
Vậy dùng cách động cung xung chiếu, đó là phá cửa nhà tù mà ra. Dùng cây gỗ lớn tông thẳng vào cửa mà phá xích. Dùng quân tinh nhuệ, lính đánh thuê tập kích phá tung tường bao, giải thoát tù nhân, thả hổ về rừng.
Với Tuần là kích tung lên cho mất cái trì trệ, chậm chạp. Đó là làm con đường xuyên qua vùng đất lạc hậu để nó phát triển đi lên. Con đường càng đâm thẳng vào vùng đất đó, càng đi xuyên qua vùng đất đó càng lợi, nên động cung xung chiếu là đắc cách.
b. Chủ động tạo sự ngăn cách.
Cách này tạo ra cái giống Tuần Triệt để giảm tác dụng của nó.
Vì Tuần Triệt là vùng đất có qui chế đặc biệt, là chỗ xa xôi, là nơi ngăn cách, nên đi xa là một cách tạo hiệu ứng tương tự. Đi đến vùng đất lạ, đi xa hẳn nơi sinh là cách giải rất tốt.
Hoặc chủ động tạo ra sự riêng biệt, tự tách riêng ra. Tự áp đặt cho mình qui chế đặc biệt, không cần cái ngoại lực nào nữa. Đó là khi ở cùng nhà mà tách hộ ăn riêng, làm cùng chỗ mà chia tách riêng các bộ phận. Để Tuần Triệt ứng vào ngăn cách, chia lìa.
c. Dùng sao Tử vi
Đây là một cách giải hết sức hữu hiệu, rất đặc biệt.
Vua có thể ra lệnh biến vùng đất xa xôi nào đó thành thị xã, thành phố, xóa cái lạc hậu chậm tiến đi.
Vua có thể can thiệp để ân xá, giảm án cho tù nhân nên Tử vi có thể giải cái hung của Tuần Triệt.
Đây là một kết quả cực kỳ quan trọng trong ứng dụng. Tử vi ở đâu, nếu dụng được cung đó thì sẽ làm Tuần Triệt nhẹ đi nhiều. Hạn đến Tử vi sẽ xảy ra hiệu ứng bung Tuần Triệt ở cung bị cùm khóa, như vua lên ngôi đại xá thiên hạ, nhà tù mở cửa giải thoát.
Mệnh Thân có Tử vi thì Tuần Triệt tại đâu cũng nhẹ đi nhiều rồi, tức tự mình có quyền tha giết, bắt bớ, nên không sợ Tuần Triệt. Hạn đến Mệnh hoặc xung Mệnh thì sự bung vỡ rất rõ.
Mệnh Thân bị Tuần Triệt, trong các cung xung chiếu, tam hợp chiếu có Tử vi mà dụng được cung đó là coi như đã được giải nhiều rồi. Điều này rất ứng nghiệm, có giá trị cao trong giải đoán.
Tử vi là vua nên dù bị Tuần Triệt đóng tại bản cung vẫn có tác dụng. Thường chỉ ứng là có giám sát chặt chẽ, có xa cách như di chuyển, thay đổi, không bị trì trệ quá đáng, không thể bị vô hiệu hóa.
Tử vi nắm quyền tha giết, Tuần Triệt phải ở trong tay nó. Động cung có Tử vi có thể làm nhẹ Tuần Triệt.
Có gia đình bố mẹ già con cái đùn đẩy không ai muốn phục vụ. Một người con dù vai thấp nhưng đón về nuôi. Người đó Mệnh bị Triệt, có Tử vi ở cung Phụ mẫu, vậy là đã vô tình rước vua vào nhà để giải Triệt. Cuộc sống từ đó liên tục phát tài, có may phúc rất khó hiểu.
Một ví dụ khác là như nàng Kiều bị cùm khóa nơi đất thấp, gặp Từ Hải là phá tung xiềng xích, trở nên khác hẳn.
Thuyền quyên ví biết anh hùng
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!
Câu trên thực ra là của Sở Khanh hót để khoe khoang với Kiều, nhưng nó lại ứng việc Từ Hải là Tử vi dễ dàng giải thoát Kiều khỏi lầu xanh. Khi Từ Hải chết rồi thì Kiều rơi trở lại đất thấp…
5. Tuần Triệt ở xứ văn minh
Ta thấy rằng ở xứ văn minh, nơi chả có chỗ nào chậm tiến thì Tuần giảm tác dụng nhiều. Ngay cả kẻ chậm chạp nhất cũng có cuộc sống cơ bản, thậm chí vẫn béo phây phây.
Xứ văn minh chả coi chuyện trái ý vua là cái gì quan trọng, nên Triệt nhà tù chỉ có bọn Nhâm Quý cặn bã mà thôi.
Xứ văn minh thì trong tù cũng có thư viện, tivi, máy tính mà dùng, con người dù bị trảm vẫn thoải mái vô tư. Như Breivik sát thủ hàng loạt ở Nauy, người ta cố bảo y điên để giảm án, y ra sức cãi tôi không điên, tôi sẵn sàng nhận trách nhiệm về hành vi của mình. Rốt cục y đi tù 21 năm mà có đủ điều kiện tiếp cận văn hóa, chỉ mất tự do mà thôi.
Đây chính là lý do các xứ văn minh không đặt nặng Tuần Triệt. Khi xem số dân xứ đó phải đặc biệt chú ý hoàn cảnh xã hội. Có người Triệt ở Mệnh nhưng là tổng thống, lúc đó ý nghĩa là vì ông ta quá quan trọng nên phải được bảo vệ giám sát chặt chẽ, không có ý xấu như thông thường nữa… 


6. Tuần Triệt ảnh hưởng lên cung


Cung có Tuần là khu vực nông thôn, ngoại ô, tỉnh lẻ, chỗ kém phát triển trong lá số.
Mệnh bị Tuần có cái trì trệ, bảo thủ, cổ hủ, không khoáng đạt, không thuận lợi trôi chảy. Thường không sinh ra ở trung tâm văn minh. Nếu là dân trung tâm thì ở ngoại ô, hoặc bản thân có những hạn chế rõ ràng.
Có nhiều biểu hiện của sự hạn chế phát triển, như hạn chế nhận thức, theo kiểu, chỉ quan tâm đến tiền, chả quan tâm gì khác, chỉ cần tiền, chả cần gì khác, chỉ có tiền, chả có gì khác. Điều này khá phổ biến đối với mệnh Tuần.
Mệnh bị Tuần cơ bản là dân thường, không nghi ngờ, không nói khác, không nhìn thấy những cái xa hơn cái người ta chỉ muốn cho mình thấy. Cuộc sống là cày sâu cuốc bẫm, lạy trời mưa xuống, để tôi an phận làm ăn. Không bị xô đẩy bởi những con sóng nhận thức, không bao giờ suy nghĩ về những khung trời xa xăm. Mệnh Tuần chỉ biết một khoảng trời bé tí, chỗ người ta hé ra cho thấy.
Mệnh Tuần nặng nhất là người chậm chạp, ngơ ngẩn, u mê, kém cỏi, vô năng.
Mệnh Thân bị Tuần khó đứng đầu, vì bản thân đã không có tính trung tâm. Do Tuần còn là vùng đất lạ nên Mệnh, Thân bị Tuần chỉ có thể đứng đầu ở những lĩnh vực hẹp, chỗ xa lạ với đa số, chỗ đất thấp kém tăm tối. Đó là kiểu múa gậy vườn hoang xưng đế.
Mệnh Tuần sống ở nông thôn, vùng ngoại ô, chỗ xa trung tâm là tự nhiên làm nhẹ Tuần đi nhiều rồi.
Thân bị Tuần thì thể chất có hạn chế, bản thân có hạn chế. Rơi vào chỗ lạc hậu, kém phát triển.
Mệnh bị Triệt là có sự giám sát, chăm sóc quá mức của bố mẹ, của xã hội, là bị vô hiệu hóa, mất chức năng bình thường, suy giảm vai trò.
Thân bị Triệt là bản thân bị giám sát, kiểm soát chặt chẽ, hoặc có tai vạ bất kỳ.
Phúc bị Tuần họ hàng ở chốn xa xôi, lạc hậu, chậm tiến, kém hanh thông. Còn là tinh thần hạn chế, như Bắc Hàn rợ độc, hung đồ nghèo kiệt.
Phúc bị Triệt họ hàng có tai vạ đột ngột, xa cách chia lìa. Là tinh thần có đổ vỡ, vài lần thay đổi nhận thức.
Điền Tuần là nhà ở vùng nông thôn, ngoại ô, có điền trang ở quê, chậm có điền sản. Điền Triệt là nhà cửa đổi thay nhiều lần.
Quan bị Tuần là môi trường làm việc cổ hủ, hoặc công việc chuyên môn hẹp ít người biết. Như Trương Đình Anh kinh doanh internet, khi internet mới có thì nó là đất lạ, đi vào đó lãi đến tận bây giờ.
Quan Triệt là bị kiểm soát, cùm khóa, mất tự do, như làm liên doanh giờ giấc chặt chẽ, đi vệ sinh phải báo cáo, ghi chép tường thuật tỉ mỉ! Còn là thay đổi công việc nhiều lần.
Lưu Quang Vũ cung quan Triệt là kịch bị soi xét giám sát chặt chẽ, có tai vạ gãy đổ đột ngột.
An nam Nô vừa Tuần Triệt là kẻ ngoại quốc bị giám sát rất chặt, là có láng giềng lạc hậu như Ai lao, Căm pốt. Di Triệt là hành vi bị kiểm soát chặt, xưa cắt bớt sóng đài, nay chặn mạng, có hồi dân yêu nhau bị rình bắt tội. Còn là hành vi phá hoại, chặt chém, sở trường của dân đất thấp.
Đại ca đuôi sam nô Tuần là có láng giềng lạc hậu, chậm tiến, đó chính là An nam. Di Tuần là hành vi thấp kém, tà độc, việc gì cũng có thể làm để kiếm mấy đồng đô la. Tuần chỗ đất thấp, đại ca mò xuống tận châu Phi để hút máu người ta.
Tật ách Tuần Triệt là bệnh nạn bị kìm chế, bị chậm tiến, bị kiểm soát chặt, rất tốt.
Tài bị Tuần là chậm có tiền, tiền kiếm bằng cách lạc hậu, cổ hủ nên ít, chậm giàu. Là kiếm tiền cách thấp kém, hoặc bị ăn chặn, hối lộ. Tài bị Triệt là tiền bạc bị kiểm soát, như phải giao hết cho vợ, là quản lý tiền bạc sát sao, không bao giờ tự hỏi tiền đi đâu mà không biết. Hoặc nhốt tiền một chỗ như nhốt tù binh.
Phối Tuần lấy vợ chồng ngoại tỉnh, nông thôn, ngoại ô, không phải người trung tâm, hoặc là người lạc hậu, chậm chạp, kém năng động. Nếu bạn đời ở trung tâm, nhanh nhẹn, tháo vát, thì không đúng số, nhiều khả năng sẽ lập gia đình lần nữa.
Lưu Quang Vũ thê Tuần người vợ đầu nhận thức thấp, cho ăn chơi điếm đàng là thời thượng đáng học tập. Huynh Tuần có đứa em nhận thức kém, miệt thị người biểu tình yêu nước…
Phối Triệt là phải qua vài mối mới thành, hoặc có xa cách, hoặc quản lý giám sát nhau quá chặt, hoặc bất đồng không thể gần nhau, nửa đường chia xa.
Tóm lại, cứ Tuần là xa xôi, lạc hậu thì đúng số, còn ở trung tâm thì chỗ đó bị kìm hãm để chậm phát triển, phải có cái man mọi hạn chế.
Triệt là bị giám sát chặt chẽ, làm mất tác dụng, mất vai trò, bị cùm khóa, vô hiệu hóa…

Nguồn gốc tử vi

Nguồn : tuvilyso.net, Tác giả THIÊN KỲ QUÝ
Người VN thường tin vào khoa Tử Vi hơn các khoa toán số khác, vì cho rằng khoa Tử Vi đã dựa trên một nền căn bản khoa học hơn. Cha mẹ mỗi khi sinh con, thường vội đi nhờ chấm số Tử Vi ngay. Có người thường thủ sẵn lá số Tử Vi của mình hay của người thân trong túi và khi có cơ hội để tìm hiểu môn này một cách thấu đáo và chính xác. Có người chỉ đọc một số tạp thư bày bán trên thị trường, học thuộc lòng một số câu phú, ngũ hành, và âm dương nói trong đó, đã vội coi mình như là kẻ đã nắm được chân lý và là “sư phụ” về khoa Tử Vi. Sự thật, lá số Tử Vi có biểu tượng toàn thế cuộc đời của con người trên đó không?

Lúc đi cải tạo về, tôi (tác giả) bị quản chế đến hai năm, không thế làm gì cả, cứ mò tới các nơi có sách toán số để xem chơi. Nhờ một cơ may, được tiếp xúc với một Chưởng Môn của phái Nam Tông về khoa Tử Vi, được cho xem sách, nghe giảng về cấu trúc của lá số Tử Vi, một khoa đã được khởi công nghiên cứu từ thời Đông Tấn (thế kỷ thứ 3) và phải sau 10 thế kỷ mới được san định lại, tôi (tác giả) thấy rằng những cái mình học trong các sách bán trên thị trường chẳng có nghĩ lý gì, vì đó chỉ là tạp thư. Cách trình bày trong những sách đó hoàn toàn có tính cách phiến diện. Dùng những loại sách đó thì chỉ có thể đoán vài chuyện lăng nhăng chơi mà thôi.
Lúc đầu, khoa này được dùng để chọn người ra làm quan, nên là một thứ mật thư của triều đình. Sau những sự thăng trầm của các triều đại, di sản của khoa Tử Vi bị di chuyển ra khỏi triều đình và trở thành di sản của các tông phái. Mỗi tông phái đều giữ những kinh nghiệm của tông phái mình như một thứ gia bảo, không cho người ngoài sao chép lại. Những loại sách trên thị trường như Tử Vi Đại Toàn hay Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chỉ là những thứ do các môn sinh ghi chép lại khi nghe giảng dạy nên thường không đầu không đuôi, đoạn được đoán mất, về sau cứ chuyền tay và sao đi chép lại mãi thanh ra tam sao thất bổn.
Hai bộ sách mà tôi (tác giả) có dịp biết được là bộ “Tập Nguyên Yếu Chỉ” của Cao Xữ Dị gồm 218 tập và bộ Huyền Môn Khai Niệm của Thiệu Khang Tiết gồm 46 tập. Bộ Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chỉ dày bằng một tập trong 218 tập của Cao Xữ Dị mà thôi. Cao Xữ Dị và Thiệu Khang Tiết là hai nhà triết học và huyền học trứ danh của Trung Hoa, thuộc phái Nam Tông. Phái Bắc Tông thiên về thực hành hơn. Trần Đoàn thuộc phái Bắc Tông. Ông có san định lại Khoa Tử Vi cho phái Bắc Tông, nhưng không để lại bộ sách nào cả. Bộ Tử Vi Đẩu Số toàn thư không phải do Trần Đoàn biên soạn mà do các môn sinh của Trần Đoàn nhớ và chép lại nên rất lủng củng và thiếu sót. Cứ theo như các chính thư cho biết thì khoa Tử Vi được xây dựng trên thuyết Tam Tài của Trung Hoa, gồm Thiên Địa Nhân. Lá số Tử Vi chỉ mới biểu hiện cho phần Thiên định mà thôi. Phải đối chiếu với phần Địa định (môi trường) và phần Nhân định (nhân tướng và tâm tướng) nữa mới đoán được.
Chính vì không nắm vững căn bản của khoa Tử Vi nên nhiều người đã thắc mắc rằng nếu số Tử Vi mà đúng thì những người sinh cùng năm tháng với Sihanouk phải làm vua như Sihanouk. Tại sao chỉ một mình Sihanouk làm vua mà những người khác không làm vua? Biết được căn bản khoa Tử Vi như đã nói trên thì có thể trả lời một cách dễ dàng: Có lá số như Sihanouk về phần Thiên định, tức về lá số mà thôi, còn phần Địa định (hoàn cảnh gia đình và xã hội) và Nhân định (nhân tướng và tâm tướng) khác với Sihanouk, làm sao làm vua được?
Các nhà đoán số Tử Vi thường hay đọc phú Tử Vi lên rồi đoán. Khi thấy một bà tới xem số, bấm lá số thấy có sao Hồng Loan ở cung Mệnh liền lẩm nhẩm trong miệng câu phú “Hồng Loan cư Mệnh chủ nhị phu”, rồi phán: bà này có hai chồng! Bà ta mừng rỡ trở về, nhưng đợi mãi chẳng thấy thằng chồng “mắc dịch” gặp tai bay vạ gió nào cả, suốt ngày cứ phây phây. Chử xiên chửi xỏ hoài mà hoài mà nó vẫn cứ cười khì khì, làm sao mà đi kiếm thằng khác ngon hơn như ông thầy đã nói đây? Dứt gánh ra đi thì thị tụi nhỏ trong nhà nó la rầy. Thế thì phú Tử Vi nói sai chăng?
Thật sự thì trong chính thư, dưới mỗi câu phú đều có phần ghi chú đầy đủ. Người có sao Hồng Loan cư Mệnh phải có mặt như thế nào, mông đít ra sao và hoàn cảnh như thế nào mới nhị phu, chớ không phải ai có sao Hồng Loan thủ Mệnh đều là nhị phu cả. Vì các tạp thư không có phần ghi chú về Địa định và Nhân định nên thầy đoán trật dìa. Vã lại, trong các tạp thư bán trên thị trường, số phú đoán chỉ có trên dưới 300 câu. Trong khi chỉ ba vòng Tràng Sinh, Lộc Tồn và Thái Tuế cũng đã tạo ra 960 chính cách. Tính cả biệt cách và phá cách cũng phải trên 4.000 câu. Không nắm vững toàn bộ làm sao đoán đúng được?
I. Cấu Trúc Lá Số
Các nhà huyền học uyên bác Trung Hoa đã dựa vào Dịch Lý, Phật Học, Thiên Văn, Nhân Tướng và thực nghiệm để dựng nên cấu trúc của lá số Tử Vi. Nhìn lên lá số chúng ta thấy có 12 ô vuông. Trên mỗi ô vuông và ở giữa lá số có ghi loạn xà ngầu bằng những danh từ bí hiểm.
Những ô vuông này có ý nghĩa gì?
Các nhà huyền học và thuật số đã xây dựng khoa Tử Vi Đẩu Số bằng một cơ cấu mà qua đó, dựa vào vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đông Phương, có thể nhìn thấy được cuộc đời của từng con người qua một tiến trình được Mệnh danh là “tiến trình Hoàn, Giải, Đoạn nghiệp” (trả nghiệp củ, giải nghiệp rồi đoạn nghiệp), vì thế trên lá số bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp. Các nhà huyền học đã hình dung tiến trình đó qua các sao và các cung sau đây:
– Sao Tuyệt: đặc trưng cho nghiệp luận hữu. Nhìn cung có sao Tuyệt có thể luận công tội của một người trong tiền kiếp.
– Cung Phúc Đức: đặc trưng cho nghiệp thụ hữu. Nhìn cung Phúc Đức có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hậu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.
– Cung Mệnh: đặc trưng cho nghiệp thể hữu. Nhìn cung Mệnh có thể luận ra những gì mà một người phải lãnh nhận do hẩu quả của những hành động trong tiền kiếp để lại.
– Sao Đẩu Quân: đặc trưng cho nghiệp cá hữu. Nhìn cung có sao Đẩu Quân có thể luận ra phần nghiệp thuộc cá nhân một người.
– Sao Thái Tuế: đặc trưng cho nghiệp cộng hữu. Nhìn cung có sao Thái Tuế có thể luận ra các nghiệp dòng họ, gia đình và xã hội tạo nên. Cái nghiệp mất nước năm 1975 là một cái nghiệp cộng hữu. Đó là vận nước đến lúc mạt. Nghiệp cộng hữu rất khó đoán, vì phối hợp với các khoa mới đoán được. Bình thường, chúng ta chỉ có thể luận về tính nặng nhẹ của cộng nghiệp mà thôi.
– Cung Điền Trạch: đặc trưng cho nghiệp tồn hữu. Nhìn vào cung Điền có thể thấy ở đó bảng kết toán cuộc đời. Cung Điền tốt báo hiệu một hậu vận tốt.
II. Ý Nghĩa 12 Cung Trên Lá Số
Trên lá số Tử Vi chúng ta thấy có 12 cung, có tên như sau: Phúc Đức, Phụ Mẫu, Mệnh, Huynh Đệ, Phu Thê, Tử Tức, Tài Bạch, Tật Ách, Thiên Di, Nô Bộc, Quan Lộc, và Điền Trạch.
Trước hết, về các sắp xếp các cung trên lá số Tử Vi, chúng ta thấy các cung này được sắp xếp theo chiều ngược kim đồng hồ chớ không phải theo chiều xuôi như đa số đã thường bấm. Tại sao vậy? Các nhà huyền học quan niệm nghiệp hữu bao gồm nghiệp chướng, phát xuất từ tiền kiếp, nên phải đi ngược trở lại vòng thời gian mới có thể khám phá ra nghiệp thế hữu trong cuộc sống hiện hình của con người. Do đó, trên lá số, tiến trình của một cuộc đời đã được sắp xếp theo cách vận hành ngược chiều kim đồng hồ. Như đã nói ở trên, lá số Tử Vi bao gồm cả tiền kiếp, hiện kiếp lẫn hậu kiếp nên cung khởi đầu trên lá số là cung Phúc Đức chứ không phải cung Mệnh như nhiều người thường tính. Cung Phúc Đức biểu tượng cho tiền kiếp và dòng họ. Từ dòng họ phát sinh ra Phụ Mẫu, Phụ Mẫu sinh ra đương số là Mệnh. Sau Mệnh là Huynh Đệ (anh em) rồi mới đến Phu Thê (vợ chồng). Có Phu Thê rồi mới có Tử Tức (con cái). Đó là phần nôi vi chủng thể. Kế đến là phần ngoại vi tiếp thể, bào gôm Tài Bạch (của cải), Tật Ách (họa, phúc, an nguy), Thiên Di (giao dịch với bên ngoài), Nô Bộc (tương quan với bên ngoài), Quan Lộc (công danh sự nghiệp), và Điền Trạch (bất động sản). Điền Trạch cũng là bản kết toán của cả cuộc đời (quy hương tổng luận). Trên đây là khái niệm tổng quát về cách vận của cuộc đời được trình bày trên lá số Tử Vi.
Mười hai cung trên lá số được gọi là Thập Nhị Nhân Duyên, tức 12 cung nguyên độc lực cấu thành số Mệnh của con người. Có người còn coi Thân là tác nhân thứ 13, nhưng huyền học coi Thân chỉ là mặt động, phần dụng của Mệnh mà thôi, nên sẽ được xét cùng một lúc với Mệnh.
1. Phúc Đức: Huyền học quan niệm Phúc Đức là “Bản lai diện mục nhân thần”, có nghĩa là hình trạng nguyên có trước của mỗi người, bao gồm cả di sản vật chất lẫn tinh thần. Nói theo Phật học, Phúc Đức biểu hiện cái tiền kiếp của đương số. Hiện kiếp tốt xấu phần lớn do tiền kiếp. Dù theo quan niệm nào thì Phúc Đức cũng đóng vai trò quan trọng, vì được coi là cái gốc của Mệnh. Huyền học coi Mệnh tốt không bằng Phúc tốt. Phát nhờ Phúc bền hơn phát nhờ Mệnh. Trong nhân gian, quan niệm về Phúc rất phổ biến:
“Người trồng cây hạnh mà chơi,
Ta trồng cây Đức cho đời về sau”.
Hoặc:
“Làm Phúc một đời, ăn 10 đời chẳng hết”.
Trên lá số Tử Vi, cung Phúc Đức còn biểu hiệu cho tất cả những gì liên quan đến dòng họ như thọ yểu, thịnh suy, ly hợp, v.v… Phúc cũng liên quan đến âm phần mà đương số chịu ảnh hưởng.
(Còn tiếp…)

Cách hóa giải Tuần Triệt

Nguồn: https://vqbay.wordpress.com/2012/06/26/hoa-giai-tuan-triet/
------
Phân độ nặng nhẹ của các sao liên quan đến CHÍNH CUNG từ các cung: 

- Tại cung (CHÍNH CUNG) các sao ảnh hưởng 100% 
- Cung nhị hợp và giáp, như Tí-Sửu, Ngọ Mùi ảnh hưởng 99% giống như đóng tại cung. 
- Cung xung ảnh hưởng 95% 
- Nhị hợp ảnh hưởng 70-80%, nếu nhị hợp thành Cách thì xem như tại cung, ảnh hưởng khoảng 90-95% 
- Tam hợp ảnh hưởng sao cặp như Xương Khúc, Quang Quý, Thai Tọa... 70%, nếu sao đơn chỉ có ảnh hưởng 50%. 
-----------
Tôi thấy trên mạng có một bài viết rất hay về cách Hóa Giải Tuần Triệt. Tôi đồng ý với nhiều quan điểm của bài viết này. Cơ sở lý thuyết của Tuần Triệt rất sâu sắc vì liên quan đến hình học của không gian 4 chiều. Cách hóa giải không vong như đã nói trong đây chính là một trong những hệ quả đặc biệt.
Trong bài “xuất không điền thật” nick Thienkyquy của trang Tuvilyso có cho rằng khi hạn đến cung bị Tuần Triệt hoặc xung chiếu cung đó thì Tuần Triệt bị vô hiệu hóa tức là xảy ra xuất không điền thật, vấn đề tại bản cung hiện lên như nó vốn thế. Chú ý một điều là trong Tử bình cũng có Không vong, địa chi Không vong bị mất tác dụng, bị vô hiệu hóa và Tử bình nhấn mạnh nếu gặp địa chi Xung chi bị Không vong thì chi bị Không vong thành thực, không còn Không vong nữa. Từ các tiền đề này tôi đã phát hiện ra cách để phá giải cung bị Tuần Triệt trong Tử vi, đó là sử dụng cung xung chiếu.

Như ông Thienkyquy đã viết, khi hạn đến cung đối xung cung bị Tuần Triệt thì Không vong được tháo gỡ, điều này có nghiệm lý đúng trong thực tế. Tuy nhiên, trong đời rất hiếm khi hạn đến cung đó, 12 năm chỉ được một lần Thái tuế, tiểu hạn đi đến mà thôi. Vì vậy để tháo gỡ thường xuyên cung bị Tuần Triệt ta sẽ tìm cách làm động cung xung chiếu. Tức là ta sử dụng, hành động để cho cung đó động lên thường xuyên, nhờ xung lực từ cung đó để phá bỏ Không vong cho cung đối bị Tuần Triệt.

Cung Mệnh bị Tuần Triệt thì dùng cung Di, xa quê hương, xa họ hàng, quan hệ nhiều với xã hội, hoạt động liên tục ngoài xã hội để cung Di luôn động, nhờ thế phá bỏ Không vong ở Mệnh.

Cung Phúc bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, nhưng nếu cảm thấy bạc phúc thì dùng cung Tài, động Tài để có Phúc, rất dễ, đó chính là làm từ thiện. Nếu hàng ngày luôn tiếp xúc với tiền như làm trong ngân hàng, dịch vụ tài chính thì cũng là động tài. Có những người cảm thấy rất dễ chịu khi để vài đồng tiền lẻ của nước nào đó trong ví, trên bàn làm việc, vì đó cũng là làm động tiền. Người Phúc xấu dù bị Tuần Triệt hay không nếu chỉ biết tham lam vơ tiền vào mình giữ cho chặt, tất sẽ đến lúc thấy tiền thật là vô vị…

Cung Quan bị Tuần Triệt thì chậm chức vụ, trì trệ chậm chạm, vậy hãy dụng cung Phối, tức là nhờ vợ chồng tư vấn, hỗ trợ thì tự nhiên công việc sẽ hanh thông. Câu tục ngữ cổ “ vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” đã nêu ra chính nguyên tắc dụng đối cung để giúp bản cung giảm điều xấu. Thực tế, có người lấy vợ xong thì vợ chỉ đường cho làm ăn, vài năm đã phất lên như diều.

Cung Tài bị Tuần Triệt chưa chắc đã xấu, chậm có tiền có khi lại hay, nhờ thế mới biết giá trị đồng tiền. Để giải thì dùng cung Phúc, như thực tế người ta vẫn hay nhờ hỗ trợ tài chính từ họ hàng thân quen. Phúc còn là tinh thần, tục ngữ có câu “có đức mặc sức mà ăn” cho thấy tiền bạc có liên quan đến tinh thần con người.[highlight=#fafafa] Nên ở đâu đó vốn đã nghèo mà còn quay quắt tráo trở, thì cứ mãi nghèo. Phúc đối cung Tài, xứ ấy có kẻ lý giải là để có nhiều tiền thì cần trí trá đê tiện, vứt bỏ [/highlight][highlight=#fafafa]lương tâm đi. Trong khi ở xứ văn minh người ta rất coi trọng đạo đức kinh doanh, ngoài việc bảo vệ môi trường thì[/highlight][highlight=#fafafa] người ta để tâm từng ly từng tí vào sản phẩm, cốt mang đến lợi ích tối đa cho người tiêu dùng. Ông Steve Jobs cho thay toàn bộ tai nghe nhạc chỉ để khi cắm vào máy nó có tiếng click hay hơn. Ông Geshe Michael Roach đi tu rồi xuống núi làm giàu bằng cách áp dụng giáo lý của Phật. Google, Facebook thành công nhờ cho không thiên hạ những gì tốt nhất có thể…[/highlight]

Cung Tử tức bị Tuần Triệt thì dụng cung Điền, phong thủy ứng dụng cho người hiếm muộn rất hữu hiệu. Thực tế khi cặp vợ chồng nào đó hiếm muộn đi tìm thầy giải thì ông thầy thường sẽ xem xét kiểm tra phong thủy, sau đó tìm cách di chuyển, sửa chữa, chọn năm tháng để kích hoạt việc sinh con, đấy chính là dụng cung Điền để hóa giải Không vong ở cung Tử tức. Nếu là con cái có vấn đề thì cũng thường do phong thủy, cần sửa nhà, chuyển nhà, động cung Điền lên để thay đổi. Nhà là môi trường sống tối quan trọng, cần chú ý đặc biệt.

Cung Phối bị Tuần Triệt thì dụng cung Quan, nếu lấy vợ chồng cùng cơ quan, cùng ngành nghề thì tự nhiên đỡ hẳn, điều này rất ứng nghiệm. Người nào mà có cung Quan quá nổi, công danh sớm tốt (ví dụ làm trong ngành điện lực, ngân hàng) thì cũng có thể phá luôn Tuần Triệt ở Phối, vẫn lập gia đình sớm. Ngoài ra, có những người lá số cung Phối bị Tuần Triệt nên phải xa vợ chồng, khi họ xin chuyển công tác, đổi việc để được gần gia đình thì chính là đã vô tình động cung Quan để phá giải Không vong rồi đó.

Trên đây là vài điểm cơ bản. Thực tế nhiều người đã áp dụng rồi. Có những người mệnh bị Tuần Triệt mà cứ như không, vì họ đã vô tình hóa giải bằng cách dùng cung Di. Ai quê ở xa, nếu Mệnh bị Tuần Triệt mà học hành, làm việc sinh sống ở Hà Nội chẳng hạn thì tự nhiên đã làm nhẹ Tuần Triệt rồi. Ngoài ra họ hay thích có nhiều mối quan hệ xã hội, duy trì tốt liên lạc với xung quanh. Những người này thường tự nhiên thấy thoải mái dễ chịu với nhiều mối quan hệ xã hội dù có khi về đặc điểm khí chất họ là người hướng nội. Điều oái oăm này chính là do các mối quan hệ đó làm động cung Di nên giải phá Không vong ở Mệnh, khiến họ thấy như được cởi trói, rất dễ chịu. Dù biết hay không biết thì vô số người đã vô tình hành động để giải Không vong rồi.

Từ đó ta phát hiện ra bí mật của việc tại sao tử vi Đài Cảng nhiều phái không coi trọng Tuần Triệt, họ thậm chí bỏ đi không thèm xem. Nguyên nhân chính là do các xã hội ấy rất phát triển, sự giao lưu xã hội của con người rất rộng. Họ từ bé tí đã được giáo dục bài bản để trở nên năng động, luôn dính mắc nhiều với mọi hoạt động xã hội nên cung Di của người dân xứ ấy luôn động rất nhiều. Và không chỉ cung Di, hầu như mọi cung khác cũng đều động do ảnh hưởng của nhịp sống công nghiệp trôi chảy cuồn cuộn. Chính vì thế mà Tuần Triệt dù ở cung nào cũng bị kích động liên tục từ đối cung nên hầu như chả còn tác dụng bao nhiêu. Tôi tin rằng đây là một phát hiện đúng đắn của mình, quả là rất bất ngờ.

Bài sau ta sẽ xét các ví dụ cụ thể của người nổi tiếng, xem họ đã vô tình, hữu ý phá giải Tuần Triệt như thế nào, sự hiệu quả có thể làm người ta ngã ngửa người ra vì ngạc nhiên…
*****
Tử vi vốn là bài toán về sự cân bằng, nên không gì không có đối ngẫu, không gì không thể bị giải phá. Điều hiển nhiên này đã bị lãng quên, lẫn lộn nên hậu học mỗi khi nhìn thấy hung tinh ác sát chỉ biết kính cẩn ghê sợ mà không biết phải làm sao. Đa số biết mỗi bài thắp hương sì sụp lạy ông này bà kia mong tai qua nạn khỏi. Nhưng có những cá nhân nào đó trong lịch sử và hiện tại đã biết hết mọi văn vở chiêu thức để phá giải các điều bất ưng trong lá số. Họ rất điêu luyện, làm cho người ta không thể không kinh ngạc trước kết quả họ đạt được. Ta sẽ xét vài ví dụ nổi bật.
Hình ảnh
Trước tiên là lá số của ông Tân Mão. Nhiều người nghi ngờ lá số Tử Tướng ở Thìn bị Triệt không phải của ông, vì đế ngộ Không vong còn gì ngôi vị, dù đắc cách Thiên Tướng Thiên Không uy quyền vạn dặm thì vẫn là bị phá, khó thành công. Nhưng Mệnh không vong thì dùng cung Di để giải, tức đi xa quê hương, bôn ba ra ngoài để biến Mệnh thành có. Ông Tân Mão đã làm đúng như thế, ông chủ động đi bôn ba xa nhất có thể, vòng quanh địa cầu, khi về thì ông thành vua thực sự. Ngay cả khi đã là vua ông cũng vẫn dùng cung thiên Di để củng cố, ông luôn đi vi hành khắp nơi, ông quan hệ tốt với thế giới. Đặc biệt ông tránh xa quê nhà, mãi lâu sau khi về nước ông mới về thăm quê. Thiên hạ đố ai biết vì sao lại thế, nay thì ta biết đấy chính là bí mật cải số của ông. Ông liên tục dụng cung thiên Di, liên tục ở cái thế đi xa, xa nhà, xa quê, xa người thân. Cung Thân của ông lại cư Di, thế là động một mà được hai, Phá Quân có Kình đắc ở cung Tuất chỗ la võng hung địa… Ông cực giỏi tử vi, bằng chứng là khi ông còn sống, một vị giáo sư có lần đến thư viện quốc gia để mượn quyển tử vi của cụ Lê Quí Đôn, thủ thư báo không có, ông hỏi thẳng cụ giám đốc thư viện thì cụ trả lời rằng quyển ấy hiện ông Tân Mão đang mượn đọc, ngài có thắc mắc gì nữa không ?!
Hình ảnh
Ông Lưu Quang Vũ cung Mệnh ở Thân có Liêm, Khoa, Hổ, là người có học, có tài. Thân cư Quan bị Triệt, xấu nên ông vào đời cực lận đận, có hồi đi làm nghề xúc đất ở công trường. Đối xung cung Quan là cung Thê, ông Vũ chắc chắn không biết tử vi nhưng ông đã dụng đúng cung Thê này để phá giải Không vong cho cung Quan (Thân) của mình. Khi ông lấy bà Xuân Quỳnh thì mọi thứ dần trở nên tích cực. Đầu tiên bà xin việc cho ông ở tòa báo, ông viết lách rồi từ đó ông thành công rực rỡ như sao chổi quét ngang đêm đen lịch sử. Ông dụng cung Thê nhưng khổ thay cung Thê lại chứa một đại cách cực hung của tử vi, Kình dương ở Ngọ thêm Thất Sát, đó là tai nạn thảm khốc, nên ông sống nhờ vợ mà chết cũng đi cùng. Khi đang sáng hết mình, ông nổ tung và biến thành muôn ánh sao băng rơi xuống chân cầu Phú Lương.
Mưa một trời hư không
Buồn đau sao muôn trùng
Mưa bay ngoài muôn trùng
Lòng sao như rỗng không
Gõ hai đầu âm dương
Một kinh cầu vô vọng
Hai ánh sao sa mạc
Tan thành một cơn mưa
Trên tài hoa nhàu nát
Trên trần gian khói sương
Trên mặt người biến sắc
Mưa in dấu vô thường.
( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Hình ảnh
Ông Trần Đăng Khoa cung Thân cư Di có Thiên Tướng cư Sửu bị Triệt lại thêm Thiên Khôi, trúng phá cách nặng, tai vạ nặng nề, như ông có lần trả lời báo chí nói là tôi giờ đã xong rồi, nói dại đi ra đường có làm sao thì cũng đã chuẩn bị sẵn sàng! Ấy ông nói thế nhưng ông khôn ngầm, ai biết ông có dụng tử vi hay không nhưng cuộc đời ông đã tự phá giải cái Không của cung Thân rồi. Vì xung cung Di là Mệnh, ông Khoa dùng ngay Mệnh để phá giải Không vong nên từ bé tý ông đã tinh hoa phát tiết, tiếng tăm lẫy lừng. Cái sự phát của Mệnh quá mạnh, quá sung mãn như nước lũ quét bay cái cầu Triệt chắn trên Thân, nên Triệt với ông Khoa bị giảm lực đi, chỉ cản nhẹ nhẹ làm ông chậm vợ con một thời rồi thôi. Ông sau này vẫn xênh xang chữ nghĩa, sau Chân dung và đối thoại thì liên tục thăng quan tiến chức, chả thấy dấu hiệu Tướng cụt đầu ở đâu. Sự làm nhẹ Không vong của ông rất đáng để nghiên cứu học tập.
Hình ảnh
Trương Đình Anh có cách Thiên Tướng Thiên Không ở Mệnh lại thêm Không Kiếp đắc nên bộc phát mau lẹ, ngoài 40 đã là vua một cõi. Nhưng cung Tài bị Triệt mà sao cự phú nức tiếng, từ rất sớm ? Cho là do giáp Song Lộc thì vẫn chưa đủ, vì Phủ đã vỡ thì bên cạnh có cục vàng chưa chắc chứa được. Vấn đề là ở cung Phúc kia. Những bậc bề trên họ hàng có ảnh hưởng thế nào đến ông, họ đã giúp ông phá giải Không vong cực hiệu nghiệm ra sao, ông dụng cung Phúc như thế nào, Tả Hữu kia nổi lên khiến cho Triệt bị gỡ bỏ ra sao ? Đó là bí mật mà ai cũng biết! Và khi Triệt đã bị liệt thì Nhật Nguyệt cuộn Lộc vào kho, ông giàu có là đúng số lắm chứ. Dù về mặt năng lực có thể họ Trương chả cần sự giúp đỡ của ai nhưng người tốt số thực sự là người chả cần ai giúp nhưng lại luôn được hỗ trợ ngầm. Sự phá bỏ Triệt của Trương chắc chắn có nguồn gốc từ cung Phúc, “Tả Hữu đồng cung phi la y tử”, có họ hàng như thế thì Triệt chạy trốn là phải lắm.
Hình ảnh
Ông Buss có lá số trúng cách “Cơ Lương ngộ Triệt phản vi tăng đạo”, thế mà ông làm tổng thống, phát động chiến tranh giết người vô số. Có người cố đẽo gọt là ông có đi nhà thờ, tu tâm dưỡng tính nọ kia, chưa đúng. Bản thân lá số Cơ Lương Thìn ngộ Triệt như thế là phá cách rồi, việc đi nhà thờ là việc bình thường phổ biến ở xã hội đó, không thể coi là sự nổi bật đặc biệt. Bí mật của vấn đề chính là ông Buss đã vô tình dụng cung Di để phá giải Triệt ở Mệnh. Ông có Thân cư Di, làm cho cung Di tự nhiên trở nên động, vì Thân ở đâu thì cung đó động hơn bình thường. Bản thân cách sống của ông Buss cũng là rất động, ông là phi công quân sự, ông tham gia các hoạt động xã hội, gắn mình vào thể thao, kinh doanh, là một người năng động. Chính điều này là đang dụng cung Di, làm động cung đó liên tục, vì thế đã vô tình phá giải Triệt ở Mệnh. Và khi Hóa Quyền được thả ra, ông thét ra lửa Hỏa Tinh là cực đúng số. Như vậy sẽ có vô số lá số giống ông Buss, nhưng do sự khác biệt lớn ở việc làm động cung Di mà thành ra khác nhau. Một phiên bản khác cho lá số này là một cha đạo, hàng ngày luôn tĩnh tại, xa cách xã hội ồn ào, cũng vẫn hoàn toàn ứng với lá số.
Trên đây chỉ là vài ví dụ cơ bản. Việc giải phá Tử vi có lẽ vẫn còn nhiều bí mật. Những con người thành công khó hiểu dường như đều có cách nào đó để vượt qua cái tờ giấy A4 mỏng manh nhàu nát. Cái cách họ phá giải lá số thường không được tiết lộ rộng rãi ra ngoài. Đôi khi người ta cãi nhau về một lá số mà theo tiêu chuẩn thì không thể có hiện thực tốt như thế. Tại sao phương Đông lại có những người được gọi là quân sư ? Họ đã làm gì để đưa cái lá số rách nát nào đó lên những vị trí quá cao so với thực lực. Làm cách nào để thổi cho những ngôi sao bay lên cao tít quá sức của chúng như thế. Nhất định là có cách và việc dùng đối cung để phá giải cung Không vong có lẽ chỉ là một bí mật vô cùng nhỏ bé…