Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Tạp luận tử vi: ý nghĩa 12 cung địa chi

Luận về tính chất và ý nghĩa của 12 cung địa chi ta chỉ có thể hiểu rõ thêm một phần nào khi ngoài căn cứ căn bản về 6 trục, tức dựa vào thiên văn, dịch lý tuần hoàn thăng giáng của Âm Dương độ, vị trí cao thấp của 12 cung, cần phải có kinh nghiệm của người nghiên cứu, một loại mang tính hoàn toàn cá biệt nhưng lại tối quan trọng đối với mọi khoa chiêm nghiệm của Đông Phương.

Nguyên ủy là do nền tảng về lý quá sâu xa, đôi khi mơ hồ, mâu thuẫn, hoặc quá cô đọng do người xưa để lại nên mỗi người nhìn mỗi khác. Kinh nghiệm tức là xem nhiều, tổng hợp, xắp xếp theo một khuôn khổ nào đó về vị trí, những việc tương đồng xảy ra dù bất luận năm tháng ngày giờ sinh như thế nào đều được ghi chép, gạn đục khơi trong để hy vọng một giải đáp mang tính mẫu số chung, từ đó mới hiểu rõ những sai biệt một cách đúng đắn, tuy sai biệt mà vẫn ẩn tàng và không ngoài cái tương đồng, cái thống nhất, có thế mới gọi là định mệnh.
Vị trí ta có thể tin tưởng để khảo sát là vị trí cung Mệnh.
Vì khoa Tử Vi tuy diễn tả sinh mệnh con người qua sự tổng hợp 12 cung như thập nhị nhân duyên, nhưng các cung khác sở dĩ mỗi cung đều có vị trí cùng nội dung riêng đều xuất phát từ vị trí cung mê.nh. Cung Mệnh là cung đầu tiên trong sự thiết lập cho toàn lá số.
Trong 12 cung vị trí cao thấp giữa các cung được định bằng trục Tý Ngọ, trục Bắc Nam phân chia Âm Dương mà người xưa diễn tả bằng câu Thiên Khai Ư Tý với một hào dương xuất hiện trong quẻ Phục làm biểu tượng cho cung Tý.
Tuần tự nhi tiến theo chiều kim đồng hồ đến cung Hợi ta được quẻ Thuần Khôn. Vậy hai cung Tý Hợi chính là các cung Đáy, cung thấp nhất trong 12 cung địa chị Trục Tý Ngọ tuy phân định âm dương, nhưng cái chính của sự phân định này nhằm diễn tả sự thăng giáng của âm dương bằng các hào về mặt Lý.
Đi vào thực tế, cung Tý tuy là cung thấp nhất, thuộc nghi âm, đáng lý nó phải là nơi lạnh nhất, nơi của tháng Tý trong một năm, nhưng thực tế cho thấy tháng lạnh nhất phải là tháng Sửu thuộc Tiết Đại Hàn nhằm ngày 21 tháng giêng dương lịch, và ngược lại tháng nóng nhất phải là tháng Mùi thuộc tiết Đại Thử nhằm ngày 23 tháng 7 dương lịch.
Như vậy trục Sửu Mùi là biến tướng của trục Tý Ngọ nhằm xác định sự phân chia quân bình về nóng lạnh, tức về thời tiết. Đã là thời tiết thì sự chuyển đổi giữa các mùa thường âm thầm, chậm chạp mà bền bỉ và rõ rệt (tạm thời ta bỏ qua các trường hợp đột biến về tháng nhuận, các đột biến do con người gây ra những thiên tai như hiệu ứng nhà kính, tầng ozone).
Từ đó ta có thể hiểu tại sao cách bất hiển công danh, hoặc sau 30 năm mới thành công của cách Âm Dương đồng cung, cách Vũ Tham đồng cung, cách Liêm Sát đồng cung, cách giáp Tham Vũ, giáp Liêm Sát là các cách chủ sự chậm chạp chỉ có khi Mệnh đóng tại trục Sửu Mùị Đối ảnh của trục này là trục Thìn Tuất cũng mang nghĩa tương tư..
Sự thăng giáng tuần tự của các hào âm và dương đi đến trục Dần Thân với 3 hào dương quân bình với 3 hào âm được quẻ Thái tại cung Dần (tam dương khai thái) và quẻ Bỉ tại cung Thân, tức trục Dần Thân là trục quân bình tốt nhất về âm dương (trục nào cũng có một cách quân bình âm dương dù có chệnh lệch giữa các hào âm và dương). Chính vì đây là nơi lý tưởng của sự quân bình âm dương nên nó là nơi xuất phát cho cục của mệnh và an chính tinh.
Trục thẳng góc với trục Dần Thân là trục Tỵ Hợị Trục Tỵ Hợi cũng là trục quân bình âm dương, nhưng sự quân bình trong thế nghiêng lệch tuyệt đối với 2 quẻ Thuần Càn và Thuần Khôn. Sự quân bình này ví như một người đi trên một sợi dây căng thẳng trong đám xiếc, cho nên chỉ một cơ hội nhỏ nhoi, hoặc một sơ xuất bất kỳ (niệm khởi) ta có thể vươn nhanh ở dạng phát dã như lôi, hoặc bị nhận chìm vĩnh viễn và té nhào (sinh địa của Không Kiếp). Do tính chất này nên hầu hết các chính tinh đều hãm địa, và mệnh đóng ở đây đều là cách giang hồ lãng tử, hay gặp trở lực và còn được lý giải thêm khi so kè với các cung khác.
Trục Mão Dậu thẳng góc với trục Tý Ngọ, là trục phân chia âm dương bằng các mùa, Xuân Hạ từ Mão tới Thân, Thu Đông từ Dậu tới Dần.
Tháng Mão với quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, sấm mùa xuân bắt đầu vang, sức sống của vạn vâ .t mới mạnh, làm thức ngủ động vật, sự sống thực sự hiện diện chứ không còn ngủ vùi, cái ăn và tính gia đình, cộng đồng bắt đầu đem đến sự ràng buộc trong mọi sinh hoạt, nên phải chăng với ý này ngưòi xưa cho cung Mão là cung của Đông Trù Táo Quân?
Từ những dò tìm mang tính sơ lược trước các bí ẩn của các cung do tính chất của các trục, dựa vào các trục để chiêm nghiệm, nay ta thử dùng vị trí cung Mệnh ứng vào từng loại cung để thử tìm cái tổng quát tính chất của từng cung, xem có được một chút ánh sáng nào về vận mệnh cố hữu ẩn tàng trong từng cung hay không?
Trước tiên cần phải nhận định việc đi tìm tính chất cùng ý nghĩa tổng quát của từng cung đều dựa vào tính chất của các trục mà không dựa vào ngũ hành của cung vì lối an 14 chính tinh rõ ràng có sự liên kết, khóa ngàm giữa các sao bằng trục chứ không phải ngũ hành với 2 chòm sao Tử Phủ lấy trục Dần Thân làm căn cứ.
Trường hợp Mệnh tại Tý.
Đây là cung đáy cho nên cách này luôn cần phải có chính tinh tốt hợp hành Mệnh, cần nhiều trung tinh, tam hóa mới thành công. Do một hào dương đầu tiên xuất hiện tại đây nên là mẫu người mang tính cải cách, sáng tạo, tay trắng làm nên, hoặc quan niệm sống cùng đời sống thay đổi hoàn toàn với quá khứ, hành xử đôi khi mang tính táo bạo, nhiều tính tranh đấu, ít mang tính van lơn xin xỏ, giữ lập trường.
Muốn được như vậy thì chính bản thân phải có những xảo thuật đặc biệt, khác người, dám nói dám làm. Chính vì vậy tại sao Quan Lộc ở Thìn luôn luôn cần Kình Dương, các sát tinh để làm lưỡi dao bén xé toang La Võng, một nhát lao vào cứu cánh một cách dứt khoát, hoặc là người có nghề hoặc ưa thích những gì tinh xảo, chế biến tài tình, nghệ thuật cao tay với cách Cơ Lương đồng cung.
Do cung Điền tại Mão là cung của Đông Trù Táo Quân, chẳng những chủ về bếp núc theo nghĩa hẹp, nó còn chủ cái gia cang của gia đình, gia tộc, lớn hơn nữa là nhân loại theo nghĩa rộng, nên cách này thường là những lý thuyết gia, những nhà cách mạng, lãnh tụ tôn giáo, đại diện cho một trường pháị Mộng cao thì té cũng cao nên đời thường vương lụy vào pháp luật, sự ghen ghét, có thương tích, tàn tật, bệnh khó chữa, dễ gặp nguy khốn do quan niệm cứng ngắt của mình, phái nữ thì duyên nợ lận đận.
Với cung Phúc ở Dần là nơi quân bình Âm Dương lý tưởng nên sự may mắn về gia thế, âm phần là đương nhiên, nhưng cũng chính vì vậy trong lòng luôn ôm mang giấc mộng lớn, luôn CẦU TOÀN trong công việc cũng như tình cảm. Vì Thiên Di tại Ngọ là nơi của Đế Tinh ngồi nên hay đi xa thì thành công, ngoại giao thì tốt lành.
Cần lưu ý sự chiêm nghiệm này chỉ ở mức độ có các sao tốt, bình thường, nếu có nhiều sao xấu ở các vị trí nói trên ta cần phải luận đoán ngược lại, nhưng phần đại thể vẫn lấy từ đây làm căn cứ.
Đối nghịch với cung Tý là cung Ngo
Cung này là nơi cao nhất, nơi ngồi của đế tinh, triều đình, nội các nên trong cách hành xử ưa chuyện cao sang, quyền quý, chỉ đi khi gặp người đáng gặp, chuyện đáng cần. Đây là cách được Trời phú cho sinh ra đã được thế hơn người, thông minh, tài trí, phước lộc đầy đủ, nếu không như vậy thì chỉ gian nan trong một thời gian ngắn cũng có cơ hội gặp người tiến dẫn hoặc có cơ hội giữ được địa vị tốt. Vì là nội các nên tử huyệt của cách này là cung quan tại Tuất.
Do đó là mẫu người làm được việc lớn, luôn có phong thái “người lớn, kẻ cả” đôi khi kiêu kỳ, nặng bề ngoàị Nên nếu gặp Tuần, Triệt, các sao không hợp cách ở Mệnh hay Quan thì chỉ là hư danh, chính khách salon, hoặc những chức vụ hữu danh vô thực. Cuộc sống tha hương, vô định chẳng có thực lực, mượn oai hùm, tốt hay xấu lúc này đều phải dựa vào cung Nô Bộc, Huynh Đệ ở Tỵ Hợi của trục Tỵ Hợị
Cung Tử Tức tại Mão là cung Táo Quân nên nặng lo người nối dõi, hoặc đào luyện đệ tử theo ý hướng, truyền thống, trường phái của mình, tức có tính bảo thủ. Các cung Phúc Đức, Điền cũng tương tự như trường hợp tại Tý.
Trường hợp cung Sửu thuộc trục Sửu Mùi, đây là chủ sự chậm chạp như đã được nói ở trên. Nếu đem so với các cung khác ta lại càng thấy ý nghĩa này càng rõ rệt.
Mệnh ở Sửu
Thì Nô ở Ngọ là nơi ngồi của Đế tinh và cũng là cung lục hại của cung Sửụ Trường hợp này cho thấy phần lớn Mệnh ở đây thường cô độc, lụy vào bè bạn, tốt hay xấu đều tùy thuộc vào cung Nộ Huống chi cung Quan tại Tỵ thuộc trục Tỵ Hợi là trục có độ nghiêng tuyệt đối giữa các hào Âm Dương, lại gặp phải cung Ngọ chắn ngang đường đi, muốn tiến thì phải vượt qua nơi ngồi của Đế Tinh với nhiều công sức. Cho nên đường công danh hay gặp trở lực, hay thay đổi, dù vẫn có nghị lực, đôi khi liều lĩnh, nhiều sáng tạo, đời sống dù lang bạt nhưng vẫn chung sống với đồng hương, sống cùng với gia đình bên mình hay người hôn phối, công việc chức vụ đều có liên quan đến thân tộc tiến dẫn hay giúp đỡ qua lại (cung Phúc tại Mão, cung Táo Quân). Càng có nhiều sao tốt hậu vận càng thành công, tình gia tộc, bè bạn, cộng đồng tốt đẹp. Bằng trái lại số phận coi như bị đè nén, không có cơ hội thi thố, làm cũng ham mà vui cũng thích, hữu danh vô thực, chóng chán, bi quan, hoàn cảnh bên ngoài, người ngoài làm chủ thân mình khiến hay bị lụy thân, phong trần phiêu bạt, nghèo khó, mẫu người của lý thuyết, nghiên cứu, trong phòng thí nghiệm, tàng kinh các.
Trường hợp cung Mùi thì lại khác
Do cung này nhị hợp với cung của Đế Tinh nên đây là cách cố vấn, quân sư, cách làm thầy người, người tính khách khí, biện tài, mô phạm, sống chuẩn mực, lý trí mạnh hơn tình cảm, chịu khó, khởi đầu thường vất vả, ước mộng ban đầu về tình cảm, nghề nghiệp hay bị đứt đoạn do tính chất của trục Sửu Mùị Nếu thời trẻ tuổi sớm thành công hoặc muốn tiến nhanh thì lại dễ bị hỏng, thất bại nhanh chóng.
Điểm kế tiếp là cung Quan tại Hợi là cung đáy cho nên muốn thành công phải có nghị lực, tài năng phi thường để vươn lên, đương đầu và kiên gan với những việc khó ai làm nổị
Cung Phúc tại Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên tha phương, hay lo hết chuyện này sang chuyện kia, không bao giờ để nước đến chân mới nhẩy, dễ đoản thọ hoặc hay có thương tích vĩnh viễn, bệnh khó chữạ
Trường hợp cung Dần
Do cung này thuộc trục Dần Thân là trục quân bình âm Dương lý tưởng nhất và do cung Quan là cung Ngọ Đế Tinh nên vận mệnh thường chiều lòng người, dễ gặp cơ hội tốt, có sự nghiệp tốt đẹp, tài giỏi, vượng phu ích tử, có nghề tay trái đặc biệt hỗ trợ cho công danh,tình cảm. Hai cung Dần Ngọ dù có gặp sao xấu cũng không đáng lo ngại, cũng có lúc vươn lên hoặc xã hội cũng có cơ hội xắp xếp cho mình một vị trí yên ổn, nhất là cung Phu Thê ở Tý là cung đáy nơi xuất hiện hào dương đầu tiên sẽ giúp đỡ và nâng đỡ cho mình, nói khác đi cung này là nơi thoái thân của mình để trú ẩn.
Đáng ngại nhất là cung Nô ở Mùi nhị hợp với cung Ngọ, nếu gặp sao xấu thì lại vất vả, khó gặp cơ hội hoặc người cứu vãn, suốt đời khó làm nên việc.
Trường hợp cung Thân
Tuy do cung này thuộc trục Dần Thân là trục quân bình âm Dương lý tưởng nhất nhưng cung Quan tại Tý là cung đáy dễ bị suy sụp khi gặp khó khăn, khó vươn lên, cần phải có chí bền. Do đó đây là mẫu người hăng say, suốt đời tranh đấu, tính toán, thích hợp các ngành kinh doanh, thương gia, kỹ nghệ gia, tay trắng làm nên. Nếu có xuất thân từ giàu có, danh giá thì đến đời mình cũng không còn được bao nhiêu, nhưng vẫn có thừa hưởng chút ít về gia tài hoặc nghề nghiệp, thời trẻ đã phải tha hương tự mình gầy dựng lạị
Đây là kết quả của cung Phụ Mẫu ở Dậu, cung Điền ở cung Hợi là cung đáy, nơi phát sinh bộ Không Kiếp.
Cung Đế Tinh tại Ngọ là cung Phu Thê rất quan trọng cho nữ hơn nam, có người hôn phối danh giá. Nhưng nếu có sao xấu và không hợp cách thường là người lận đận tình duyên, đảm đang mà hạnh phúc lợt lạt, nhiều mối lương duyên chật vật, ngang trái, hoặc sống cô độc. Nam thì đa thê nếu cung Tý gặp Tuần Triệt.
Trường hợp cung Mãọ
Do đây là cung Táo Quân chủ cái gia cang của gia đình, thân tộc nên làm gì cũng có dính líu đến người thân, đồng hương, bằng hữu, ưa thích tham gia vào những hiệp hội mang tính cộng đồng về xứ xở, ngành nghề, tôn giáo, có óc gia đình nên công việc hay có sự lôi kéo người thân tham gia . Như vậy sự tốt xấu đều tùy thuộc vào cung Mão và cung Phúc tại Ty..
Nếu các cung này xấu là người tha phương, nay đây mai đó, lạc lõng tình thương, mồ côi, nương thân nơi người khác, duyên nợ lận đận, khó khăn. Ngoài ra cung Dậu còn là cung Thiên Di thứ hai nên hay đi xa và càng làm gia tăng các tính nói trên.
Tuy nhiên vì cung Điền là cung Đế Tinh và cũng là cung Phúc thứ hai nên đi đâu cũng có nơi ăn chốn ở, hậu vận vẫn có nơi chốn cư trú yên ổn, trở về mái nhà xưạ Nếu lập nghiệp nơi xa cũng lôi kéo và là nơi trú ngụ tạm thời cho người thân.
Đặc điểm tốt là cung Quan tại Mùi nhị hợp cung Ngọ Đế tinh nên thường thân cận với người có chức quyền, có tài, có khả năng giúp đỡ mình.
Trường hợp cung Dậụ
Sách xưa cho là cung của thần phật, yếm thế. Phải chăng do đây là sinh địa của sao Thiên Hình chủ sự khắc khổ, sát phạt, hình phạt, hình thương, tù tội, nên mới đặt định như vậy?
Đứng về phương diện trục thì trục Mão Dậu phân chia qua mùa, sự tuần hoàn tuần tự, kế tiếp và liên tục từ xuân hạ sang Thu Đông rồi trở lạị . Nên hai cung Mão Dậu chủ sự thay đổi, biến động không bao giờ ngừng.
Đứng về phương diện quẻ tháng 8 tại cung Dậu là quẻ Phong Địa Quán. Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới, là gió thổi trên mặt đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét khắp mọi loàị Với các yếu tố này ta có thể xem cung Dậu là một loại cung Thiên Di thứ hai vậỵ
Nếu cho cung Mệnh tại Dậu thì cung Phúc tại Hợi, là cung đáy, thuộc trục Tỵ Hợi, nơi có sự quân bình âm dương nghiêng lệch nhất như đã nói ở trên. Cung quan tại Sửu thuộc trục Sửu Mùi, trục chủ sự biến đổi chậm chạp và luôn bị cung lục hại là cung Ngọ đế tinh kiềm chế, cản trở, cung Điền tại Tý cũng là cung đáy, cung tài tại Tỵ cũng thuộc trục Tỵ Hợi, cung Thiên Di tại Mão là cung táo quân chủ sự ràng buộc về gia cang và nhân thế.
Xét về mặt trục và quẻ cũng như xét sự phối hợp tương quan giữa các cung với nhau đều cho thấy một phần nào cung Dậu được gọi là cung của yếm thế, trải qua bao mối buộc ràng trong nhân tình thế thái, tung hoành một thời sau cũng nghiêng về lẽ Đạọ
Do cung Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên là mẫu người tha phương, bôn ba khắp chốn, dù trẻ tuổi có sống với gia đình nhưng lại hay thích ở nhà người, chòm xóm. Vận hạn công danh thay đổi liên tục khiến cho bản thân tự có bản lĩnh, tính cương quyết, nhiều mưu trí, có tay nghề khéo tinh xảo, hoặc có tài gia công chế biến vì luôn chú ý đến mọi tiểu tiết để phòng thủ, đôi khi có sự liều mạng để đương đầu, luôn mơ ước một nơi trú ẩn yên ổn dù là gia đình, vật chất hay tâm linh. Nếu gặp nhiều sao tốt thì công danh lên mạnh, có những đột biến trong
đời, thỏa chí hạnh phúc, nặng tình gia đình lo toan mọi mặt (Phu Thê và Tử Tức là hai cung nhị hợp Ngọ và Mùi). Nếu gặp nhiều sao xấu trong các cung trên thì suốt đời bị đè nén, phát nhanh tàn nhanh, hay gặp hiểm nguy, người thân trong gia đình hay gặp chuyện không may, sống đời cô độc, thoát ly trần tục.
Trường hợp cung Thìn
Do cung Thìn là cung Thiên La nên ở đây cần Tuần, Triệt hoặc hung tinh đắc cách nhất là Kình Dương để mở lưới giăng trên đầu, giải trừ hung họạ Đây là mẫu người tuổi trẻ thường chịu nhiều vất vả nhưng có tính chiến đấu rất cao, giỏi chịu đựng, có niềm kiêu hãnh riêng trong lòng (cung Phúc tại Ngọ Đế tinh), dám làm bạo, chủ trương táo bạo và quan niệm sống khác người, không có sự cầu xin. Cung nhị hợp là cung Dậu, loại cung Thiên Di thứ hai, nên ra ngoài thành công hay thất bại tùy thuộc rất nhiều vào cung nàỵ
Trường hợp cung Tuất
Do cung Tuất là cung Địa Võng nên ở đây cũng cần các sao như trường hợp ở cung Thìn. Vị trí cung này tốt hơn vì dù sao cung Tài vẫn là cung Ngọ Đế tinh, cung Quan ở Dần là nơi sinh ra Cục, vị trí âm dương quân bình nhất nên là người mẫu mực, thẳng thắn, óc thực tế với thân phận hiện tại và thời cuộc, dễ thành công, biết hài hòa giữa tham vọng và sự thiệt hạị Cho nên dù gă.p sao xấu đời có lúc tăm tối nhưng cũng có cơ hội vươn lên nhờ không chạy theo hào nhoáng.
Trường hợp cung Ty
Do thuộc trục Tỵ Hợi vốn dĩ thế quân bình âm Dương đã bị nghiệng lệch tuyệt đối, lại thêm cung Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên là cách phiêu bồng giang hồ, đa tình, đa lụy, đa sầu, xuất ngoại là tốt hơn hết. Tuy nhiên nếu gặp sao tốt và hợp cách trở thành người lịch lãm, phong lưu khoái lạc, đời thong dong, thích hợp những ngành nghề lưu động, thuyết phục, ý tưởng, như quảng cáo, du lịch, tư vấn, ngoại giao, bán bảo hiểm, chủ hụi, vận chuyển, thông tin, tin chuyện đồng bóng, huyền bí và làm từ thiện, tu hành đạo đức, nhà nghiên cứu, học giả.
Trường hợp cung Hợi
Cũng giống như trường hợp cung Tỵ, nhưng vì là cung đáy và cung Mão với quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, cũng là cung Táo Quân, nên tuy vẫn là cách giang hồ phiêu bồng, chóng chán, nhưng cũng có lúc phát nhanh tàn nhanh trong cơ nghiệp.
Nói chung ở đây chỉ nêu ra những kinh nghiệm đã từng ứng dụng trong việc tổng hợp phân loại trên nhiều lá số. Vấn đề còn nhiều bí ẩn, vì tính chất căn bản của mỗi cung đã bị các sao làm đảo lộn khá nhiều nên khó có thể nhìn thấỵ . Cần nêu ở đây là ta vẫn có niềm tin rằng qua sự phân định của các trục , ắt hẳn mỗi cung phải tồn tại một tính chất riêng tư nào đó , làm căn bản nhằm giải thích những trường hợp về khởi điểm của các sao, sự mâu thuẫn vị trí đắc hãm khi dựa vào ngũ hành, cùng tính chất đặc thù của chúng, cũng như xem các cung đại hạn, tiểu hạn.

Tạp luận tử vi: Người ăn ảnh

Phi lộ:

Tử vi nào dành cho Vua Chúa khi gọi Tử vi là Đế tinh. Tử vi nào dành cho số ít có Công danh, cho những người đượcc gọi là Quan phong tam Đại (Cự Nhật). Ai là người trồng lúa, ông chủ trang trại, ai là thợ làm Nail, ai là người tài xế taxi cho đến kẻ ăn không ngồi rồi. Ai là người làm đầu tắt mặt tối không đủ ăn, ai là không làm mà được hưởng. Và tại sao có những người hy sinh cả đời cho việc Thiện Nguyện cứu giúp người cùng khổ như một đức tin. Đã đến lúc các Tử vi gia phải bàn đến họ, là các con người chiếm số đông trên địa cầu. Cuộc đời họ như vết lăn trầm giữa chợ đời nhưng trong các trang sách Tử vi ít đề cập đến. Để cho Tử vi thực sự từ con người, là bức phát thảo chân dung số mệnh cho mọi người không miễn trừ. Và nên nhớ cho bức tranh đó không phải là bức tranh truyền thần, vì ngoài trời còn có ta. Đó là quyền lực mỗi một cho việc thay đổi số mệnh.



Câu chuyện 2

Về quan niệm dân gian cho rằng Phụ Nữ mà chụp hình ăn ảnh quá thường lận đận về tình duyên.

Quan niệm trên tồn tại trong cửa miệng của mọi người khi nhận xét ai đó qua hình ảnh, và qua khuôn mặt thật ngoài đời. Nó không tồn tại trong ca dao, trong tục ngữ …Tương tự như các câu cửa miệng như “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hình xung”, hay “Trai Đình Nhâm Quý thì sang, Gái Đinh Nhâm Quý thì hai lần đò” … Căn cứ vào đâu mà dân gian tồn tại quan niệm đó? Có thật là Tử vi có tồn tại những dạng “Định Lý” ấy chăng?

Tử vi được hình thành trên cơ sở dữ liệu ngày, tháng, năm và giờ sinh âm lịch. Và sinh ở đâu sẽ lấy giờ ở đó. Quan trọng nhất là xác định được giờ Tý địa phương nơi sinh thành.

Thiếu bất kỳ dữ liệu nào trong 4 dữ liệu nêu trên đều không hình thành được lá số. Một lá số có trên 100 sao tương tác lẫn nhau tạo thành. Do vậy có thể nói ngay chỉ căn cứ vào Chi tuổi ( gồm 12 chi từ Tý đến Hơi) và Can năm sinh (gồm 10 can từ Giáp đến Quý) là thiếu cơ sở, là võ đoán. Nhưng tại sao trong dân gian tồn tại những quan niệm đó, phải chăng không có lửa làm sao có khói?

“ Có phải bạn đang làm công việc liên quan đến Truyền thông?

Bạn có một sở thích là chụp ảnh, và lưu giữ rất nhiều?...

Bạn đang làm công việc xử lý ánh, hậu kỳ phim,…” – Tử vi gia hỏi.

Có lẽ bạn đọc rất ngạc nhiên vì sao Tử vi lại có thể đoán định và hỏi những câu hỏi như trên. Vì tử vi được ra đời từ rất lâu, từ thuở mà nền văn mình vật chất chỉ là Con ngựa và cổ kiệu là định ra thân phận. Càng không thể qua Tử vi mà có thể đoán định được những điều trên, và những nghề nghiệp của thời hiện đại (Công Nghệ thông tin, Truyền thông, Phim ảnh, xử lý hình ảnh trong Đồ Họa …). Tôi xin trả lời là hoàn toàn có thể. Tử vi là hiện ảnh của nghiệp lực con người. Theo dòng tiến hóa, Tử vi mang trong nó khả năng tự cập nhật cùng con người.

Đó là bộ sao Hình Diêu Y!

Bạn có thể thấy trong lá số của mình, hay bất kỳ ai về ngôi sao Thiên Hình này. Ngôi sao này được an theo tháng sinh (dĩ nhiên là tháng âm lịch). Được khởi từ cung Dậu an thuận chiều mỗi cung một tháng.

Ngôi sao này có nghĩa gì, phải chăng đây là một hung tinh, một dấu hiệu xấu trong lá số mà ai ai cũng sợ hãi? Thông thường ai ai biết Tử vi đều cho thế, nhưng với người viết thì không! Không có ngôi sao thuần tốt, không có ngôi sao thuần xấu. Vấn đề là hợp cách thì tốt, và ngược lại.

Khi Thiên Hình là ngôi sao hợp cách với bạn thì nó là:

Là tấm gương sáng về đạo đức cho người khác noi theo. Là luật lệ trong Luật pháp, là chống chỉ định trong ngành y: Thiên Hình Quyền Kỵ Khoa, là hình thức áo quần trang bị: Thiên Hình hội cùng Tướng Ấn, là hình ảnh từ hình ảnh con người ta chứng kiến đến tấm hình kỷ niệm ngày nào: Lộc Tồn – Thiên Hình, sâu rộng ra tùy chính tinh cho ta các nghề nghiệp liên quan đến xử lý hình ảnh, hậu kỳ phim ảnh, phim ảnh trong chẩn đoán hình ảnh Y Khoa …. Và có khi đó là một người mẫu: Thiên Hình Đào Hoa …Vậy Thiên Hình của bạn thế nào?

Những điều tôi liệt kê trên đây là những mặt tốt khi Thiên Hình hợp cách. Ngoài ra Thiên Hình sẽ hợp cách khi nó hội cùng Xương Khúc Khoa xa lánh Kỵ Không Kiếp hội cùng Khôi Việt.

Và đương nhiên ngược lại là điều không may của số phận mà bạn, tôi, chúng ta phải mang. Lúc này đây không phải là than trách mà là phải thay đổi, khống chế nó để giảm tác dụng xấu …Ví dụ: điều cần biết cung an THÂN có sao nầy tự làm khổ bản thân như tự hành xác vậy. Sinh động là câu chuyện ‘Nhất Bộ Nhất Bái’ đang xẫy ra. Đây là lối tu ‘Khổ Hạnh’ tâm nguyện của họ là thế. Cung an Thân có sao nầy lại thêm KÌNH nữa dễ bị thương tích vào thân thể do chiến đấu, do xung đột bằng vũ khí, do bị mổ xẻ …

Trở lại tiêu đề của “câu chuyện 2”, vô luận Thiên Hình của bạn “Tốt” hay “xấu”, “hợp cách” hay không “hợp cách”. Một một lát cắt dẫu mỏng thế nào luôn tồn tại hai mặt của nó. Hai mặt vấn đề trên càng trở nên “kinh khủng” khi Thiên Hình không hợp cách.

Một người có Thiên Hình thủ Mệnh cung (có thể mở rộng ra Phối/ Phu cung) mà mặt trái của ngôi sao này là ngôi sao “Trời hành”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng khi có người yêu là Bác sĩ, và người đó đã đem “cặp mắt nghề nghiệp” làm thành hương vị tình yêu cuộc sống của hai người “nhìn đâu cũng thấy vi trùng” và đương nhiên chúng ta khó có hy vọng có “nụ hôn kiểu Pháp”. Và không ai cãi khi nói trong nước miếng có lắm vi khuẩn, nhưng …

Do Hình là mẫu mực từ đó Hình chuyển thành bắt bẻ cũng thiên hình vạn trạng... cái điều bắt bẻ. Vì bên cạnh tam hợp với Hình có Thiên Diêu chủ sự Mù Quáng, Mê Muội, U Mê tự hành hạ bản thân mình mà không biết. Thay vì bắt bẻ người chuyển sang tự bắt bẻ mình. Thay vì hành hạ người sang tự hành hạ mình, thay vì chĩa mũi gươm vào người thì tự chĩa mũi gươm vào mình. Mũi kiếm Thiên Hình đó vô tình cắt mất những tình yêu, thế là tan vỡ một mối tình, cắt đứt một cuộc hôn nhân.

Vì thế có câu: Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Đừng đòi hỏi mẫu người như mình hình dung trong đầu, ông trời tức cười “ghét cái gì ông cho cái đó”. Nhưng cũng khoan áp dụng câu trên, vì thay vì hành hạ người ta lại hành hạ Ta như Sen tôi viết ở trên thì cũng quá tội. Bởi Thiên Hình là trời HÀNH mà. Dẫu những lời bắt bẻ, đay nghiến đó có đúng đi chăng nữa nhưng hạnh phúc không phải được xây dựng trên lý lẽ mà là sự bao dung. Nói cách khác, yêu người, yêu mình thì hãy đem chữ Khoa để tự biết, biết không nên bắt bẻ người thì cũng tránh tự HÀNH chính mình. Hãy để THIÊN HÌNH là tấm ảnh đẹp (Đào Hình), là phương pháp làm việc, những quy chuẩn trong nghề nghiệp như Quy chuẩn Thiết Kế trong Thiết kế Kiến Trúc. Là trang bị áo quần trong thời trang. Ai cũng có cái riêng cần tôn trọng, và ai ai cũng cần được tha thứ trong đó có chính Ta.

Qua đó cho thấy không phải mọi quan niệm của dân gian lúc nào cũng sai và lúc nào cũng đúng.

Tạp luận Tử vi: Chính tinh và phụ tinh


Câu chuyện 1: Ông chủ và đầy tớ để biết bạn là ai?
Nào chúng ta hãy cùng dạo chơi trên câu chuyện này nhé! Dong ruổi trên đường, nhìn người xe qua lại, có người bề ngoài sang trọng, có người bộc lộ vẻ giàu sang, có người tất bật lam lũ … Qua cái nhìn đầu tiên đó, Tôi, Bạn hay ai khác không thể biết họ là ai?

Một Công chức cao cấp chăng? Hay một Tỷ Phú? Và kia là người làm công ăn lương? …Vẻ ngoài đó có thể cho Ta một chút võ đoán nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Và thực tế lắm kẻ lừa đảo dưới vẻ ngoài của một Tỷ Phú!
Trong tử vi, một lá số có 12 cung và an trí trên đó là 14 chính tinh cùng các Bàng tinh kèm theo. Tôi không bao giờ gọi là Phụ Tinh để so với chính tinh. Với tôi không có ngôi sao nhỏ, ngôi sao lớn. Tất cả các ngôi sao đều quan trọng như nhau và thậm chí nhiều trường hợp đã biến từ lá số tưởng chừng như tốt thành một lá số xấu vì một ngôi sao ít được để tâm đến, ví dụ như sao Bệnh Phù.
Tôi cũng không quan tâm đến việc Đắc hay Hãm của một ngôi sao. Vấn đề là hợp cách và Tứ hóa. Bạn sở hữu một máy tính với cấu hình mạnh như một ngôi sao đắc địa nhưng tiếc thay công việc chủ yếu của bạn là chat và chơi game. Một người khác, đang làm công việc xử lý phim, ảnh nhưng lại sở hữu một máy tính cấu hình kém như một ngôi sao hãm.
Nhưng người sau nhờ có học (Hóa Khoa), biết thủ thuật và giải pháp để xử lý phim ảnh trên một máy cấu hình kém (Tham Hình ngộ Khoa). Và công việc đó mà sinh ra tiền (Hóa Lộc). Nhờ có học, có tham vọng (Tham Lang) mà vận kỳ tới đắc cách (có Hỏa Linh) thì Anh ta phát triển sự nghiệp và tiền tài nhanh chóng. Trên đây là ví dụ cho cái gọi là đắc hay hãm của sao trong Tử vi.
Trở về tiêu đề “ Ông chủ và đầy tớ để biết bạn là ai?”. Khi bạn bước vào một tiệm Phở nhìn thấy ông chủ và những người phục vụ. Ông chủ thì trang phục sang trọng, và người phục vụ thì bận đồng phục.
Chủ một tiệm ăn
Nhờ thấy người Phục vụ, nhìn thấy món ăn ở đây là Phở và nhìn lại người đang sai bảo nhân viên, thúc dục họ phục vụ khách. Một điều đơn giản cho bạn để nhận xét: “Đây là ông chủ Tiệm Phở”, phải không các bạn?
Ta giả định một lá số có cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương, tức là cách cục lá số tại tam hợp Mệnh Tài Quan của Ông chủ kia:
Bạn không thể biết đây là lá số một ông chủ tiệm ăn với các chính tinh đó dẫu sách cho bạn biết đắc hay hãm của bộ chính tinh này!
Nhưng nhìn vào lá số tôi thấy bộ sao Phục Binh ngộ Thiên Đồng. Tôi còn thấy ở đó có Hỏa Linh và quan yếu là Hóa Lộc. Tại sao thế?
Phú có câu “Cơ Nguyệt Đồng Lương tối kỵ Hỏa Linh xâm phá”, đó là hình ảnh ruộng khô cỏ cháy. Là tâm trạng hờn giận trong đêm của người đàn ông có ngôi sao Phụ Nữ này (Thái Âm). Nếu chỉ chừng này thôi thì đây là lá số khó có hạnh phúc lứa đôi. Và giả định Mệnh tại Thân là Cơ Âm thì cuộc đời một nắng hai sương. Đêm đã gần trôi qua mà vẫn còn làm chưa đi nghỉ nhưng thu nhập chẳng là bao (!).
Nhưng nhờ có Hóa Lộc đã cứu nguy lá số … Hỏa Linh kia là ngọn lửa, là nóng và lạnh đã biến tổ hợp nước lèo và phở cùng thịt bò làm thành tô phở ngon lành và sinh lộc. Cuộc đời ông ta là chủ tiệm ăn. Tiệm ăn đó lớn hay nhỏ, nổi tiếng hay bình thường còn phụ thuộc các bộ sao khác kèm theo.
Về người làm công việc Thiện Nguyện:
Chúng ta hãy cùng nhau đến một trung tâm dưỡng lão. Nơi nuôi dưỡng những cụ già neo đơn không nơi nương tựa. Và giả định có một con người có cách cục như trên đó là Cơ Nguyệt Đồng Lương.
Nhưng khác ông chủ tiệm Phở, ông ta không có Hỏa Linh mà ôm trọn bộ sao Cô Quả cùng Khôi Việt. Các bạn biết không, bộ sao được gọi là chính tinh đó tuy là chủ nhân đã không biến ông ta/ Bà ta trở thành người làm công việc thiện nguyện này mà chính là tổ hợp sao được gọi là Phụ tinh: Cô Quả, Khôi Việt … đấy!
Việt Đồng Cô Quả hội cùng Âm Dương Lương nghĩa là phát sinh (Việt) lòng yêu thương (Đồng) đối với những người già neo đơn (Âm Dương Lương hội Cô Quả). Và cũng bộ sao Khôi Việt đó đã biến ngôi sao chủ Ấm là Thiên Lương, giúp ngôi sao này lấy của mình đem cho người.
Kẻ Hà Tiện
Bạn hãy cùng tôi đến thăm một kẻ xứng danh Hà Tiện nhé! Và giả định người này cũng sở hữu cách cục lá số như trên nhưng có tiểu dị ở một số phụ tinh.
Hắn không có Khôi Việt ở Mệnh, và thay vào đó là Thiên Hình Hóa Kỵ cùng Lộc Tồn bạn ạ. Nhưng tôi nói trước là bạn không nên có ý định mượn tiền hắn, hay nghĩ đến việc hắn sẽ mời bạn một bửa ăn ra trò. Tốt nhất là hãy tự sắp đặt bữa trưa cho mình và cũng nói luôn kẻ này không ngại ngần gì nhận lời nếu được chúng ta mời.
Vì sao gọi hắn là kẻ hà tiện? Người có tấm long trắc ẩn và kẻ long dạ trơ ra như đá chỉ khác nhau chút ít ở bụng dạ – Chính là ngôi sao Thiên Đồng!
Hắn làm sao trở thành kẻ rộng rải cho được khi kết quả (Cô Quả) bụng dạ của hắn là Đồng Cơ: chỉ nghĩ tới mình và trơ ra trước bao hoàn cảnh người khác vì Thiên Cơ có nghĩa là riêng, và còn có nghĩa là Đá.
Hắn ôm Lộc Tồn và Thiên Hình Hóa Kỵ do vậy phương châm luôn là để dành, thu gom vào mình. Cuộc sống với hắn luôn với phương châm “mỗi ngày chỉ xài một 1 dollar!”, đến cái giẻ rách cũng để dành. Và thú vui duy nhất là đếm tiền. và đương nhiên hắn không thể nghèo!
Nhà nông học hay người nông dân, người làm Tư vấn:
Để kết thúc chuyến du hành, ta lại ghé thăm một nông trại. Và chủ nhân của nông trại này chúng ta cũng giả định có một lá số mà chủ nhân cũng là Cơ Nguyệt Đồng Lương như trên.
Khác với những nhân vật trên, người nông dân này có Đào Hoa hội Mệnh cùng Cô Quả, …Trong khu vực này các bạn hãy nhìn:
Có nhà nông kia có Tuần hội Mệnh có Hóa Khoa, Hóa Lộc … Đơn giản ông ta có bằng cấp chuyên môn và Nông nghiệp – Kỹ sư Canh Nông. Bạn hãy nhìn cánh đồng ông ta đang sở hữu thật màu mỡ, hứa hẹn một mùa bội thu.
Đào Hoa Cô Quả là hoa trái, là hoa lợi từ nông nghiệp, cùng kiến thức của Hóa Khoa nên ông ta biết phòng (Tuần) sâu bệnh rất tốt.
Còn người kia vì có Hỏa Linh Không Kiếp nên trồng cây cây chết sâu bệnh, nuôi vật vật bị bệnh dịch vì tuy ông ta có Tuần. Nhưng chữ Tuần thành chữ trúng nạn đó bạn ạ!
Và kia nữa, ngôi nhà nho nhỏ nhiều hoa thơm cỏ lạ đó không phải là một nông dân mà là một Tư vấn về lập kế hoạch phát triển Dự án liên quan đến Xây dựng, liên quan đến quy hoạch, truyền thông – Tại sao ư? Vì ông ta là Cơ Lương thiện đàm binh bạn nghe câu phú đó chăng?
Cơ Lương là lương kế, Cơ Đồng là việc riêng, việc chung là hỏi Cơ và đáp là Đồng …Cùng Khoa Đào nên công việc của ông ta rất thành công.
Thưa đọc giả,
Những câu chuyện tuy là giả định, và những nhân vật giả định mà tôi vốn gặp nhiều trên đời trong con đường tìm hiểu Tử vi với những lá số thật cho con người thật. Và câu những câu chuyện trên cũng chỉ là vài nét đan thanh trong muôn vàn cách cục trong Tử vi.
Qua đó chúng ta sẽ thấy mối tương quan giữa Chính tinh và cái gọi là Phụ tinh đó như thế nào? Chính tinh là chủ nhân nhưng chúng chỉ là cái áo, bộ vó bề ngoài. Để định nghĩa họ là ai thì xin hãy nhìn Phụ tinh làm việc. Như vào quán, nhìn thực phẩm phục vụ, nhìn nhân viên làm việc. Và chính lực lượng đó giúp ta biết Ông chủ là ai qua đầy tớ, người làm thuê, người phục vụ ăn lương.
Chúng ta ai ai đa số đều dùng thịt bò, có bò để nấu phở, có khi là bò nướng, có khi là món bún bò Huế, … . Tất cả đều dùng thịt bò, hay còn gọi là những món ăn được chế biến từ thịt bò.
Có thể giả định Thịt bò là một trong 14 chính tinh trong Tử vi. Nhưng thưa các bạn, nếu không có Phụ tinh là mắm ruốc, xả, ớt xa tế thì làm sao trở thành cách cục Bún Bò? Nếu không có sự tham gia của các Phụ tinh: Hồi và Quế … Thì sao thành món phở?
Vậy đâu là Chính tinh, đâu là Phụ Tinh? Với tôi, các ngôi sao đều quan trọng như nhau có chăng là khác vai trò đóng vai trong vở kịch số mệnh. Hợp cách thì đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu thì lá số tốt. Chẳng may ăn Phở mà được mời dùng với lá Mơ thì lá Mơ đó không ai dụng đến. Còn có người đang dùng Thịt Chó thì lại được mời rau quế và hành mà không có Riềng, Xả hay lá Mơ thì đó là không hợp cách. Là những lá số không tốt vậy!
Chúng ta dừng cuộc ngao du tại đây và hẹn các bạn vào số tới – Xin tạm biệt.

Tạp luận 12 cung


 
12 cung của Tử Vi được an theo chiều nghịch lần lượt là Mệnh Bào Phối Tử Tài Tật Di Nô Quan Điền Phúc Phụ mẫu.

Cung Mệnh được an trước, Mệnh và Thân đồng thời xuất hiện trên lá số nên không thể nói Thân do Mệnh sinh ra, Thân phụ thuộc vào Mệnh, Mệnh Thân là đồng đẳng theo cách an. từ Mệnh kéo theo 11 cung liên đới sau nó. Nhưng nếu nói Mệnh sinh ra 11 cung đó nghe cũng rất chối, vì không lẽ Mệnh sinh Phụ mẫu, Mệnh sinh Phúc đức.

Rõ ràng Phúc đức sinh Phụ mẫu, Phụ mẫu sinh Mệnh, nhưng Mệnh vẫn là ông chủ tối cao của lá số. Điều này tương tự như vòng Trường sinh, có xuất lộ sinh ra mới có Mệnh (Trường sinh), nhưng Mệnh không phải tự dưng sinh ra, không phải tự Mệnh là khởi nguyên của Mệnh, Mệnh phải do Phụ mẫu (Dưỡng) sinh, Phụ mẫu do Phúc đức hình thành, vậy phải chăng Phúc đức (Thai) là khời nguyên của Mệnh, như vậy khởi nguyên của Phúc đức là gì ? Lá số không nói rõ khởi nguyên của Phúc đức là gì mà tóm lược tất cả phúc duyên, căn nguyên sinh ra Mệnh là Phúc đức (Thai). Vậy nói Phúc là cội nguồn của Mệnh rất chính xác, nhưng Phúc không thể thay thế Mệnh vì sao ? Vì sao Mệnh vẫn là chủ nhân tối cao của lá số ? Vì Mệnh không xuất lộ (Trường sinh) thì không có cung Phúc đức. Phúc đức như cả một đội đua chuẩn bị về kinh tài về kỹ thuật nhưng nếu Alonso không về nhất thì không ai đề cập đến hậu phương của đội đó.

Do vậy cần phải nói rõ hơn về tên của 12 cung

Mệnh là Tôi
Bào của Tôi
Thê của Tôi
Tử của Tôi
Tài của Tôi
Tật của Tôi
Di của Tôi
Nô của Tôi
Quan của Tôi
Điền của Tôi
Phúc của Tôi
Phụ mẫu của Tôi

Khi Tôi không còn thì của Tôi cũng không thể tồn tại. Như vậy Bào của Tôi cũng phải diệt ??? Đúng vậy, Bào của Tôi cũng không còn. Nhưng, anh em tôi vẫn còn sống trên đời ?? Chính xác. Và không hề mâu thuẫn vì đó là thực tế. Như vậy Bào của Tôi không thể là anh em tôi.

Như vậy Bào của tôi (hay nói cách khác là cung Bào trong lá số của tôi) không thể là một hình ảnh độc lập của anh em tôi đứng trên lá số của tôi, cung Bào đó luôn phụ thuộc sự tồn tại của Mệnh nên cung Bào đó phải là hình ảnh, thực trạng của anh em tôi khi xét tương quan với Tôi, nói cách khác phải là Bào của Tôi, không thể thiếu chữ của Tôi.
Tương tự như vậy Phụ mẫu của Tôi sẽ phải khác Phụ mẫu của anh tôi vì Tôi khác Anh tôi. Có nghĩa là tuy cùng cha mẹ nhưng hai cung Phụ mẫu hoàn toàn khác nhau. Hình ảnh cụ thể của cha mẹ ngoài đời chỉ có Một (Ông A, bà B nào đó) nhưng trong các lá số khác nhau của hai anh em ruột là khác nhau. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng đó mới là chính xác, Phụ mẫu của Tôi phải khác Phụ mẫu của Anh em tôi, Phúc đức của Tôi phải khác Phúc đức của anh em Tôi, dù tôi và các anh em là cùng cha cùng mẹ. Điều này tôi chỉ đề cập đến đây còn các bạn tự nghĩ thêm.
 
12 cung tạo thành 4 Tam hợp : Mệnh Tài Quan, Phúc Di Phối, Điền Tật Bào, Phụ Tử Nô.
Như vậy quan hệ giữa các cung trong tam hợp này liệu có phải quan hệ phụ thuộc, hay sinh thành giữa các cung đó với nhau không. Giả sử là có.

Vậy thì tại sao hào con hào của, con cái là tiêu chí đánh giá Phúc đức của dòng họ, của gia đình, lại không hợp chiếu với cung Phúc, con cái là sản phẩm của mình và vợ/ chồng mình, tại sao cung Tử tức không chiếu cung Mệnh hay cung Phối ??? Hay tam hợp Điền-Tật-Bào quan hệ tương thuộc và sinh thành cũng rất khiên cưỡng.

Như vậy quan hệ giữa 3 cung trong các tam hợp không phải lệ thuộc hay sinh thành.

3 cung trong một tam hợp không thể xét độc lập, đều phải xét trong tương quan với Mệnh, và 3 cung là đồng đẳng trên một tiêu chí nào đó đối với Mệnh.

Ví dụ : hai tam hợp Điền Tật Bào, Phụ Tử Nô.

Điền-Tật-Bào là các yếu tố ảnh hưởng mạnh đến tinh thần của ta qua từng thời kỳ. Lúc nhỏ có anh em như thể tay chân (Bào), trung niên sức khoẻ là vốn quý, tai nạn là hệ trọng (Tật) khi lớn lên anh em kiến giả nhất phận, về già vui thú ruộng vườn, nhà cửa (Điền trạch) anh em chưa chắc gần nhau, sức khoẻ suy kém theo thời gian là đương nhiên.

Phụ-Tử-Nô là tài sản của Mệnh về người, trẻ cậy cha (Phụ), trung niên có tâm phúc (), già cậy con (Tử). Tiền bạc không thể mua được cha mẹ, không thể mua được con cái, mua được bạn bè nhưng không thể mua được tâm phúc. Ba cung của tam hợp này thể hiện tương tác qua lại Nhân Quả mạnh mẽ, mà mang nặng các giá trị đạo đức xã hội như Nghĩa, Hiếu, Trung, nên được xếp đồng đẳng trong tương quan với Mệnh.

Khi kết hợp hai tam hợp trên thấy rằng, cả hai tam hợp chỉ lúc nhỏ có Bào và Phụ- đồng thời Bào và Phụ giáp Mệnh (thuở nhỏ trên là cha mẹ, xung quanh là anh em, tiền tài danh vọng với bản thân lúc này không quan trọng bằng cha mẹ và anh em). Lúc trung niên có Tật và Nô - đồng thời Tật và Nô giáp cung Thiên Di (môi trường xã hội, quan hệ xã hội, địa vị xã hội). Về già hai cung Tử và Điền xung chiếu, cuộc sống về già vui ruộng vườn nhìn con cháu trưởng thành, nên cung Điền cho biết rõ nét cuộc sống về già, đồng thời với Phúc (thai), Phụ mẫu (Dưỡng) Mệnh (Trường sinh) thì Điền là nơi Tuyệt khí. Theo quan điểm truyền thống Điền còn là ngôi mộ, ngôi nhà của người chết, khi hội Phúc Duyên tại Phúc sẽ qua Dưỡng lại đầu thai thành Mệnh mới. Một vòng Trường sinh mới lại bắt đầu. Chính vì sự xuyên phá không gian này mà vòng Mệnh mới đi nghịch cho nên thuyết vòng Trường sinh không thể đi nghịch với Âm nam, Dương nữ hoàn toàn sụp đổ.
 
Hỏa (-)PHỤ-MẪU / 116Tị
NHẬT <+Hỏa-mđ>
Thiên-Việt
Phi-Liêm
Hồng-Loan
Long-Đức
Tuyệt
Hỏa (+)PHÚC-ĐỨC / 106Ngọ
PHÁ <-Thủy-mđ>
Tả-Phù
Hóa-Khoa
Thiên-Phúc
Tấu-Thơ
Thai-Phụ
Bạch-Hổ
Mộ
Thổ (-)ĐIỀN-TRẠCH / 96Mùi
CƠ <-Thổ-đđ>
Quốc-Ấn
Tướng-Quân
Tam-Thai
Bát-Tọa
Phúc-Đức
Thiên-Đức
Quả-Tú
Tử
Kim (+)QUAN-LỘC / 86Thân
TỬ-VI <+Thổ-mđ>
PHỦ <-Thổ-mđ>
Hữu-Bật
Hóa-Quyền
Tiểu-Hao
Thiên-Khốc
Đẩu-Quân
Điếu-Khách
Thiên-Mã
Bệnh
Thổ (+)MỆNH (Thân) / 6Thìn
VŨ <-Kim-mđ>
Văn-Khúc
Hóa-Kỵ
Đường-Phù
Hỉ-Thần
Thiên-Hư
Thiên-Quí
Tuế-Phá
Thiên-La
Thai
DậuThânMùiNgọ
Tuất
Tỵ
HợiThìn
SửuDầnMão
Kim (-)NÔ-BỘC / 76Dậu
NGUYỆT <-Thủy-mđ>
Thanh-Long
Thiên-Thương
Trực-Phù
Địa-Giải
Thiên-Trù
LN Van-Tinh:
Suy
Mộc (-)HUYNH-ĐỆ / 16Mão
ĐỒNG <+Thủy-đđ>
Thiên-Khôi
Bệnh-Phù
Linh-Tinh
Tử-Phù
Thiên-Riêu
Thiên-Y
Nguyệt-Đức
Đào-Hoa
TRIỆT
Dưỡng
Thổ (+)THIÊN-DI / 66Tuất
THAM <-Thủy-vđ>
Văn-Xương
Thiên-Quan
Lực-Sĩ
Đà-La
Ân-Quang
Thái-Tuế
Thiên-Giải
Hoa-Cái
Địa-Võng
Đế-Vượng
Mộc (+)PHU-THÊ / 26Dần
SÁT <+Kim-mđ>
Đại-Hao
Phong-Cáo
Long-Trì
Quan-Phù
Thiên-Tài
Thiên-Thọ
TRIỆT
Trường-Sinh
Thổ (-)TỬ-TỨC / 36Sửu
LƯƠNG <-Mộc-đđ>
Hóa-Lộc
Phục-Binh
Hỏa-Tinh
Thiếu-Âm
Phá-Toái
TUẦN
Mộc-Dục
Thủy (+)TÀI-BẠCH / 46
LIÊM <-Hỏa-vđ>
TƯỚNG <+Thủy-vđ>
Quan-Phủ
Kình-Dương
Phượng-Các
Giải-Thần
Tang-Môn
TUẦN
Quan-Đới
Thủy (-)TẬT-ÁCH / 56Hợi
CỰ <-Thủy-đđ>
Lộc-Tồn
Bác-Sỉ
Địa-Kiếp
Địa-Không
Thiên-Sứ
Thiên-Hỉ
Thiên-Không
Thiếu-Dương
Thiên-Hình
Cô-Thần
Kiếp-Sát
Lưu-Hà
Lâm-Quan


Tôi xin lấy một ví dụ :

Lá số này đã được xem và được đoán định là Xương Khúc gặp Hóa kỵ nên nôm na là HỌC HÀNH KHÔNG THUẬN LỢI. Nay tôi sẽ phân tích lại thêm cho phong phú.

Trước hết cũng xin phép các bạn là : Trong tìm hiểu lý thuyết căn bản, tôi tôn trọng logic. Nhưng trong giải đoán của tôi hoàn toàn áp đặt quy chụp một cách chủ quan khiên cưỡng thậm chí cực đoan độc đoán và vô lý nên xin được miễn tranh luận về giải đoán.

Mệnh Thân đồng cung tại Thìn có Vũ khúc, Văn khúc và Hóa kỵ hội Văn xương từ Thiên Di. Cách cục của Mệnh là Tử Phủ Vũ Tướng. Hội cát tinh Ân quang, Thiên quý. Cung Mệnh có Tang Mã Khốc Hư cho thấy có khả năng người này là kẻ tư duy sâu sắc nhưng báo hiệu một cuộc đời không thuận về tình cảm.

Thiên di có Văn xương hội Tả phụ, Hóa khoa, Thai phụ, Phong cáo. nói lên môi trường xã hội mà người này chọn lựa và số phận chọn lựa người này là môi trường học vấn.

Cung Tài bạch và Quan lộc đều có những sao thể hiện địa vị quyền lực, sự thành đạt và sự bất mãn. Không thấy có văn tinh hội chiếu nhiều.

Chuyển qua cung Phụ mẫu có cách Nhật Nguyệt miếu, đắc Thiên việt, tam hợp của Phụ mẫu khá sáng sủa và thuần cách nhưng gặp Tuyệt và hội nhiều sát tinh từ cung Tật chiếu lên nên cha mẹ nhất là cha về quyền lực là con số không, có học vấn và tư cách xã hội trọng danh dự, đạo đức nhưng cuộc đời không được đắc ý về công danh.

Âm Dương của một lá số thể hiện hai dòng âm dương của cơ thể và vận khí vĩ mô của cuộc đời, lá số được Âm Dương sáng nên có thể là người có đầu óc sáng láng.

Cung Bào có Thiên khôi, Đào hoa gặp Triệt. Nói chung Mệnh giáp Khôi giáp Việt, Thiên khôi gặp Triệt nhưng khi hành vận Thiên khôi cũng thu được kết quả tốt về học tập, nhưng khó đỗ đầu ở những đẳng cấp nhất định.

Theo tôi lá số có cung Phúc khá tốt nhưng không thuần cách, cung Phúc có các cách : Phá quân Hóa khoa, Phúc mộ, Phúc đức Tả phụ, Phúc Thai Cáo. Phúc Thiên phúc. Theo duy tâm là người được hưởng phúc học hành từ âm phần của dòng họ, theo Nhân Quả là kẻ được xuất phát khi hội đủ phúc duyên, phúc duyên học tập nên không thể nói người này học kém. Nôm na là có Nghiệp HỌC.

Theo duy vật, người này được sinh ra từ một dòng họ có truyền thống học hành, có gen học tập, nhiều người thành công trong học vấn, cha mẹ anh chị em đều là những người có học vấn nên được giáo dục và có tố chất nên học hành thuận lợi.

Nhược điểm của cung Phúc này là Phá quân tuy đắc Hóa khoa nhưng vẫn chủ sự thất thường, thăng giáng. Nói theo duy tâm, sau này tuy có địa vị, quyền lực nhưng luôn kéo theo sự thăng giáng bất ngờ là nguyên nhân chính biến người này thành bất mãn trong cuộc đời. Nhưng Phúc Tả phụ là có mả cứu bần nên trong vận xấu cũng không đến mức lụn bại.

Cung Phu thê Thất sát gặp Triệt đắc Long trì, gặp Tài Thọ v.v... hợp nhiều cát tinh, văn tinh nên lấy được người chồng thành đạt nhưng không được đắc ý về tình cảm. Chồng con là vấn nạn của lá số này, cung Nô bộc cũng khá tốt nên sự bất đắc ý này chủ yếu do tính cách và sự lựa chọn của bản thân.

Cung Tật có những cách cục khá đặc biệt, Cự môn đắc Lộc tồn, Tam không, Thiên hình, Kiếp sát, Lưu hà, Cô thần. Mệnh Thân Hóa kỵ Thiên la, Di Đà la Thai tuế, Điền trạch Tam thai Bát tọa nên đề phòng họa ngồi tù tiềm ẩn. Tuy Mệnh Quang Quý, Phúc Tả phụ, Hóa khoa nhưng chỉ làm giảm nhẹ về thời gian và hậu quả, còn ngồi tù là không tránh khỏi.

Cung Điền cho thấy cuộc sống về già gần như tu hành, trong hối hận và sự cô độc.
 
 
Mệnh và cung an Mệnh

- Mệnh có Ngũ hành nên mới gọi là Mệnh Sa trung thổ, mệnh Hải trung kim v.v... Nhưng còn có cung Mệnh, tại sao cục cũng có Ngũ hành, lại không có cung Cục, trong khi mệnh và cục có tương đương để xét sinh khắc.
- Mệnh có ngũ hành mệnh, cung Mệnh có Ngũ hành cung Mệnh, ngũ hành cung mệnh lại không phải ngũ hành của Mệnh, vậy Mệnh không phải là cung Mệnh.

- Nếu Mệnh là cung Mệnh, cung Mệnh có ngũ hành cung Mệnh lại chứa các sao trong cung mệnh, toàn bộ cung Mệnh nếu là Mệnh lại phải mang ngũ hành Mệnh. Như vậy ngũ hành sao, ngũ hành cung lại nằm trong một ngũ hành Mệnh kể cả hai cung Mệnh cùng vị trí và giống nhau hoàn toàn trừ vòng Trường sinh. Thật khó đạt lý và quá phức tạp không căn cứ vững chắc. Như vậy Mệnh không phải cung Mệnh.

- Nếu ngũ hành mệnh được xác định từ năm sinh thì rõ ràng mệnh cũng phải được xác định từ năm sinh, trong khi lại tồn tại cung an Mệnh, và cặp mệnh thân. Như trên đã đề cập Mệnh Cục là cặp tương đương. Có cung an mệnh mà không có cung an Cục như vậy mệnh theo năm sinh thực ra phải thay bằng "Tuổi" hoặc đơn giản là năm sinh.

- Cung mệnh là cố định, vận trình thay đổi. Một người qua đời tại thời điểm nào đồng nghĩa với mệnh tuyệt tại thời điểm đó. Như vậy rõ ràng có sự tác động của đại vận đến mệnh. Nếu xét đơn lẻ cung Mệnh thì trong bất cứ vận nào cung mệnh cũng không thay đổi cho một lá số. Khi sinh ra đã vậy thì không lẽ cũng như vậy tự diệt. Tất nhiên không thể bỏ qua lưu hành đại vận tương tác đến. Như vậy mệnh có tương tác với vận.

- Giả sử có mệnh, khi một người được sinh ra dù mới sinh cũng đã gọi là có mệnh, dù sống vài giờ rồi qua đời thì cũng gọi là tuyệt mệnh, như vậy phải chấp nhận rằng sinh ra là có mệnh. Chuyến tàu số phận đưa mệnh đến thả ở một nhà ga, thời điểm mệnh xuống tàu chính là thời điểm một người được sinh ra. Mệnh đó phải chờ đến đủ số cục mới lưu hành vào đại vận tại cung mệnh ( với trường hợp khởi đại vận tại cung mệnh), trước khi đủ tuổi đến số cục đại vận chưa hình thành mệnh vẫn phải ngồi đợi ngoài cung Mệnh, không được bước vào cung an mệnh. Như vậy rõ ràng cung an mệnh không có một chút dính líu đến mệnh. Vì nếu cung an mệnh là nơi chứa mệnh đỡ mệnh khi mệnh được sinh ra thì không lẽ gì mệnh lại phải chờ đủ số cục mới nhập vào chính nơi nó được đặt vào lúc sinh ra. Trong thực tế mệnh vẫn phải ngồi ở sân ga để đợi đủ số cục mới được phép bước vào lưu hành đại vận. Như vậy Mệnh không phải cung an Mệnh.

Như vậy, mệnh không phải cung an Mệnh, mệnh không phải mệnh theo Lục thập Hoa giáp thì mệnh là gì với thân tạo thành cặp mệnh thân tương đương, cũng như cặp mệnh cục tương đương. Trong khi Thân có cung an Thân. Nếu mệnh không phải cung an Mệnh đương nhiên Thân không phải cung an Thân. Như vậy mệnh là mệnh, thân là thân, mệnh thân là hai yếu tố độc lập và được gọi đơn giản là mệnh thân như hai sao thì lấy gì trên lá số để xác định hai từ mệnh thân này. Và hai cung Mệnh, cung Thân dùng để làm gì khi không phải là mệnh thân.


Đến đây, mệnh lại là cung an mệnh, thân là cung an thân. Như vậy chắc chắn trong quá trình dùng từ mệnh (có thể gọi là mệnh, đề là mệnh nhưng lại không phải là mệnh). Mệnh phải tìm trên lá số là mệnh mà khi qua đời thì gọi là tuyệt mệnh chứ không phải mệnh để dùng gọi là mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ theo Lục thập Hoa giáp. Hoặc có tiên đề nào đó không phù hợp đã được sử dụng bên trên .
thất sát is offline